Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Dương Quá và Tiểu Long Nữ, ái tình đẹp nhất trong tiểu thuyết Kim Dung

Dương Quá và Tiểu Long Nữ, ái tình đẹp nhất trong tiểu thuyết Kim Dung
 

 


Có lẽ mối tình đẹp nhất trong tiểu thuyết của Kim Dung chính là mối tình của Dương Quá và Tiểu Long Nữ ? Chẳng lẽ tình yêu của Quách Tĩnh với Hoàng Dung không đẹp ? Tình yêu mà Lệnh Hồ Xung dành cho Nhạc Linh San là chuyện tình không đoạn kết ? Hay trong tim của Trương Vô Kỵ vẫn còn có bóng hình nàng Chu?... Hay những cuộc tình đơn phương là không xứng đáng?

Câu trả lời là vì ở tình yêu ấy mang quá nhiều hy sinh. Cả Dương Quá lẫn Tiểu Long Nữ đều sống vì người khác chứ không sống cho bản thân mình. Những tưởng lúc tuổi trẻ bốc đồng Dương Quá chưa hiểu chuyện nam nữ tư tình, chỉ vì tính hiếu thắng mà xả thân quyết sinh tử cùng Long cô nhưng mãi cho đến mười sáu năm cách biệt mà tấm lòng thủy chung của Dương Quá vẫn không hề thay đổi. Niềm đau khổ dâng lên tột cùng khi nghĩ rằng Tiểu Long Nữ đã chết 16 năm về trước để y được sống trong bình yên. Nắm xương tàn của nàng đã vùi nơi đáy cốc ra tro từ thưở nào, mà mình thì cứ ngây ngô tận bây giờ mới hiểu. Những suy nghĩ của Dương Quá chính là điều mà Tiểu Long Nữ lo lắng khi khắc lên vách đá :


 
Mười sáu năm sau tại đây tái hợp, phu thê tình thâm xin đừng thất ước.
Tiểu Long Nữ gửi phu quân Dương lang, ngàn lời trân trọng, cầu mong gặp lại.


Tiểu Long Nữ là truyền nhân duy nhất của phái Cổ Mộ. Nàng sở hữu một sắc đẹp tuyệt trần, thanh thoát như tiên nữ. Sắc đẹp ấy khiến Doãn Chí Bình – gã đạo sĩ của Toàn Chân giáo – thầm thương trộm nhớ từ ngày này qua ngày khác, khiến quần hùng trong đại hội võ lâm phải sững sờ, khiến chủ nhân Tuyệt Tình cốc Công Tôn Chỉ điên đảo thần hồn.

Dương Quá là con trai duy nhất của Dương Khang (Hoàng Nhan Khang) và Mục Niệm Từ. Thưở y còn nhỏ, bá mẫu Hoàng Dung vì nghi ngờ sự trung thực của Dương Quá nên không truyền thụ võ công cho cậu bé mà chỉ dạy cậu ta sách Luận ngữ. Về sau, khi đánh nhau với anh em họ Vũ, Dương Quá sử dụng "Cáp mô công", bị Hoàng Dung phát giác. Do vậy, Quách Tĩnh phải đưa Dương Quá lên núi Chung Nam xin gia nhập phái Toàn Chân, vái Triệu Chí Kính làm sư phụ. Tuy nhiên vì không phục sư phụ trong lòng, nên Dương Quá ăn nói hỗn láo, và Triệu Chí Kính chỉ truyền khẩu quyết chứ không truyền võ công cho Dương Quá. Vì vậy, trong cuộc tỉ thí cuối năm Dương Quá không sử dụng được võ công của phái Toàn Chân, nhưng lại sử dụng võ công chân truyền của Tây Độc Âu Dương Phong để đả thương một số đệ tử lớn hơn. Dương Quá chạy trốn khỏi Toàn Chân giáo, lạc vào cổ mộ, gặp được Tiểu Long Nữ và bái nàng làm sư phụ. Lúc này, Tiểu Long Nữ mười tám tuổi, lớn hơn Dương Quá vài tuổi, nên Dương Quá gọi Tiểu Long Nữ là cô cô. Dương Quá được dạy cho các võ công của phái Cổ Mộ, một phái được sáng lập bởi Lâm Triều Anh, người tình xưa của Vương Trùng Dương.

 

 
Mối tình sư đồ giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ bắt đầu từ đây. Tiểu Long Nữ là sư phụ đầu tiên của Dương Quá. Vì thế trong khuôn khổ trật tự truyền thống, thầy và trò thì không thể nào "yêu nhau" được do đó là chuyện trái đạo lý. Nhưng họ đã vượt qua rào cản đó mặc cho sự khinh rẻ của người đời. Tình yêu của họ nảy mầm từ một thế giới hoàn toàn cách biệt với người xung quanh, như Tiểu Long Nữ từ trong cổ mộ bước ra và Dương Quá từ cõi mồ côi vắng vẻ đến gặp nàng.

Khi Tiểu Long Nữ bị Doãn Chí Bình hãm hiếp tước đoạt đi trinh tiết, Dương Quá không coi đó là hố sâu ngăn cách. Khi Dương Quá bị chém cụt cánh tay, trở thành một kẻ tàn tật, Tiểu Long Nữ không bị ám ảnh bởi khiếm khuyết đó của người yêu. Họ sẵn sàng đổi sinh mạng của người này cho sự sống người kia. Suốt 16 năm xa cách, đôi tình nhân này vẫn một mực thủy chung trước cám dỗ của cuộc sống. Vượt qua những cái nhìn khắt khe, không ám ảnh bởi sự thất trinh, tật nguyền và tuổi tác; được thử thách bởi sự phân ly, sinh tử, để cuối cùng họ có thể sống bên nhau, thiết lập "một cõi riêng" bềnh bồng trong thế giới đầy định kiến của con người. Họ đã tạo ra một thiên tình ca mà cho đến nay vẫn còn là câu chuyện tình kinh điển đọng lại trong lòng nhiều người.

 


 
Đoá Tình Hoa rực rỡ hương ngào ngạt
Nhụy Tình Hoa ngọt lịm chợt đắng ngay
Gai Tình Hoa mang chất độc nát lòng,
Quả của nó không bao giờ đoán được.


Hoa Tình xuất hiện ở Tuyệt Tình Cốc và nạn nhân “chết” vì độc Tình hoa tưởng kẻ vô tình hoá ra là người hữu ý nhất - Lý Mạc Sầu.

Những tưởng Tình hoa đã bị thiêu là hết nhưng nó vẫn dày vò trong những trái tim thổn thức. Trong đời hẳn không chỉ một lần bạn gặp Tình hoa, và vô ý bị gai Tình hoa đâm phải ? Khi độc phát tán ra như thiêu đốt tận cùng tim gan. Và thời gian để nguôi ngoai “vết thương” ấy có thể là rất lâu. Nhưng Dương Quá không ăn cỏ đoạn trường để dứt tình với Tiểu Long Nữ mà ăn vì mong chờ ngày đoàn tụ cùng nàng, lòng si mê Tiểu Long Nữ không hề nguội lạnh trong 16 năm.


Tiểu Long Nữ không ngờ 16 năm sau họ Dương vẫn trọn vẹn tấm chân tình với người vợ năm xưa của mình. Y đã đau khổ đến mức tâm sầu bạch phát khi chợt hiểu ra rằng “Tiểu Long Nữ đã chết 16 năm về trước". Tự trách móc rồi bất lực khi Tiểu Long Nữ không xuất hiện để Dương Quá được sống một cuộc đời bình lặng làm trái tim y tan nát. Suốt cuộc đời một đứa trẻ mồ côi luôn vắng mặt tình thương yêu của cha mẹ như Dương Quá thì chỉ có Tiểu Long Nữ là người thấu hiểu và gần gũi với y hơn ai cả. Tuyệt vọng Dương Quá buông người lao thẳng xuống Đoạn Trường Nhai.

16 năm luôn đợi chờ và hy vọng
16 năm chí khí lẫn hào hùng
16 năm mong 1 lần gặp lại
16 năm vẫn một dạ thủy chung.

“Có đau lòng không khi người ta mà yêu thương lại không thể cùng ta đi hết đoạn đường mà ta sẽ đi qua. Có nỗi đau nào lớn hơn nổi đau chẳng còn được nhìn thấy người mà ta yêu dấu một lần nữa trong đời. Sẽ chẳng phải là ta nữa khi không còn nàng sóng đôi! Với Dương Quá đó là mất tất cả, mọi thứ với y đều trở thành hư vô khi cuộc sống không mang về Tiểu Long Nữ.”



Tình yêu của Dương Quá và Tiểu Long Nữ đẹp như một bức tranh thần tiên mà con người hiện tại không bao giờ có được. Hiếm người phụ nữ nào trên thế gian này qua 16 năm sống trong cô độc mà vẫn giữ được một vẻ đẹp thuần khiết thoát tục. Hiếm người đàn ông nào trên thế giới này đang ở trên đỉnh cao danh vọng tức thì tìm đến cái chết khi nhận ra rằng người mình yêu đã không còn tồn tại cách đây nhiều năm. Là người Á Đông nếu gặp một phụ nữ hơn mình nhiều tuổi làm trái tim bạn đập liên hồi, bạn có dám yêu và dám cùng nàng vượt qua những thị phi thời hiện đại?

Câu trả lời của Tiểu Long Nữ khi Dương Quá hỏi nàng …“nếu là Quách Phù thì cô Long sẽ chọn ai trong hai huynh đệ họ Võ”. Tiểu Long Nữ trả lời “ta chọn Quá nhi” Dương Quá tưởng Tiểu Long Nữ chưa rõ ý mình nên nhắc lại “không, ý tôi là nếu cô Long là Quách Phù thì cô Long sẽ chọn ai trong hai huynh đệ họ Võ”. vẫn câu đấy nàng lặp lại “ta vẫn chọn Quá nhi”…

Một ai đó cạnh bên bạn cùng đi những bước đầu tiên trong cuộc sống; một ai đó xoa dịu lúc bạn vấp té bị đau, một ai đó chia sẽ những khoảng lặng trong tâm hồn lúc bạn bồn chồn, và một ai đó cùng bạn nhân đôi niềm vui khi cuộc sống ban tặng tiếng cười sảng khoái. Nếu đã có một ai đó như thế, ngay lặp tức bạn nhận ra rằng bạn đã yêu người đó.

Thiết tha gì nữa khi đã có nàng trong vòng tay. Cái danh trong ngũ tuyệt là gì so với 16 năm đợi chờ. Y chỉ muốn được cùng nàng phiêu bạt khắp nơi. Vì giờ đây "…Thiên hạ là của ai thì còn gì là quan trọng ? Ta cần nó để làm gì ?... Dương Quá này ngông cuồng đâu chỉ ngày hôm nay...".

“Chung Nam Sơn hậu
Hoạt Tử Nhân mộ
Thần Điêu Hiệp Lữ
Tuyệt tích giang hồ.”

Mối tình của Dương Quá và Tiểu Long Nữ thỏa mãn được sự khao khát, ước ao vươn đến một tình yêu thanh khiết cao thượng nơi mỗi người, thế nên ta mới thấy tình yêu của họ là mối tình đẹp nhất.
 

 

 

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

Tương tư (Thơ Nguyên Sa)

                                                                    Tương tư
                                                                
                                                                   (Thơ Nguyên Sa)



Tôi đã gặp em từ bao giờ
Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya
Kể từ gió thổi trong vừng tóc
Hay lúc thu về cánh nhạn kia?



Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?









Có phải mùa xuân sắp sửa về
Hay là gió lạnh giữa đêm khuya
Hay là em chọn sai màu áo
Để nắng thu vàng giữa lối đi?




Có phải rằng tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng đợi chờ em
Hay từng hơi thở là âm nhạc
Đàn xuống cung trầm, mắt nhớ thương



Buổi tối tôi ngồi nghe sao khuya
Đi về bằng những ngón chân thưa
Và nghe em ghé vào giấc mộng
Vành nón nghiêng buồn trong gió đưa



Tôi không biết rằng lạ hay quen
Chỉ biết em mang theo nghề thường
Cho nên đôi mắt mờ hư ảo
Cả bốn chân trời chỉ có em.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

Lý Tầm Hoan - Phi đao vấn tình

                                                    

                                                       Nhân gian bất kiến Sở Lưu Hương

                                                       Tiểu Lý Phi Đao thành tuyệt hưởng




Bộ truyện Tiểu Lý Phi Đao hay Đa tình kiếm khách vô tình kiếm là một đỉnh cao trong văn nghiệp, tạo nên “thương hiệu” Cổ Long. Dường như Cổ đại hiệp đã tung hết bút lực để tạo dựng nên một hình ảnh Lý Tầm Hoan sừng sững trong những nhân vật văn học của tiểu thuyết kiếm kiệp.

Sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc bậc nhất thiên hạ: “Nhất môn xuất tiến sĩ - Phụ tử tam Thám hoa”,Lý Tầm Hoan giỏi văn chương thơ phú từ bé. Trong một gia đình cả cha và anh đều đã đỗ Thám hoa, việc chàng Tiểu Lý cũng đỗ Thám hoa khiến Lý gia thất vọng nhiều hơn là vui mừng. Thói đời là vậy, “phụ tử tam Thám hoa” mà chẳng giật được cái khôi nguyên há cũng đáng tiếc. Văn chương tài hoa là thế, võ công của Lý Thám hoa cũng thật trác tuyệt. Với tuyệt kỹ “đàn chỉ thần công” làm lực kết hợp với “tâm nhãn” làm thước ngắm, phi đao của Lý Tầm Hoan được xếp hàng thứ ba trong những loại binh khí mạnh nhất thiên hạ. Bá Hiểu Sinh, tác giả của Binh Khí Phổ ca ngợi: “Tiểu Lý phi đao - Lệ bất hư phát”. Vậy là họ Lý cũng đã có văn chương đủ để lưu danh thiên hạ, võ công đủ để khuấy đảo giang hồ. Lại thêm vóc dáng phong lưu thanh nhã cùng một bản lĩnh tuyệt luân, dường như Lý Tầm Hoan sinh ra để hưởng tất cả những ưu ái của cuộc đời.

Nhưng tài năng và hạnh phúc đâu phải cứ luôn song hành với nhau. Với Lý Tầm Hoan, bi kịch ở chỗ bản thân tự tạo ra cho số phận mình và vướng vào vòng bi kịch đó. Lý Thám hoa của những thành công và hạnh phúc có lẽ đã không trở thành một Lý Tầm Hoan của những bi kịch và đau khổ nếu cuộc đời không xô đẩy Tiểu Lý gặp người anh kết nghĩa của mình là Long Tiêu Vân. Trong một lần ra miền quan ngoại, họ Lý bị kẻ thù tấn công. Rơi vào tình thế mãnh hổ nan địch quần hồ, nếu không có Long Tiêu Vân, họ Lý đã chẳng toàn mạng trở về. Long Tiêu Vân đã nghiễm nhiên trở thành ân nhân số một của Lý Thám hoa. Người nào ra ơn với mìnhdù chỉ một lần, Lý Tầm Hoan sẵn sàng dành cả đời đền đáp. Long Tiêu Vân đã dám liều mạng để cứu mình, cái ơn sinh tử đó, Lý Thám hoa nào dám xem thường. Cung kính mời họ Long về Lý gia trang để cùng thề nguyền kết tình huynh đệ nhằm đền đáp phần nào công ơn của Long Tiêu Vân đối với mình. Với bản chất là một kẻ sống bằng tình cảm, coi trọng bằng hữu hết mực, Lý Tầm Hoan đã rơi vào cái bẫy của số phận do chính mình giăng ra.




Khi biết Long Tiêu Vân yêu Lâm Thi Âm, người yêu đã gắn bó với mình từ thủa nhỏ, Lý Tầm Hoan rơi vào gọng kìm của một bên là tình bằng hữu, một bên là tình yêu. Tình yêu của Lý Tầm Hoan với Lâm Thi Âm lớn lắm. Nhưng Long sư huynh đang ngày một héo hon và sắp chết vì thất tình. Lý Tầm Hoan đã tự đánh cược với số phận mình. Tự bôi đen mình trước mắt người yêu. Họ Lý tìm đến chốn phong lưu hoa nguyệt cùng mỹ nữ, đắm chìm trong men say của rượu nồng để dần biến đổi từ một Lý Thám hoa hào hoa phong nhã thành một Lý Tầm Hoan triền miên đi tìm những cuộc truy hoan. Nhiều người cho rằng Lý Tầm Hoan điên rồ, thậm chí ngu dốt. Tuy nhiên trường hợp của Lý Tầm Hoan, chàng đã quyết định đúng với bản tính của mình. Chẳng phải Tiểu Lý luôn coi “Bằng hữu như thủ túc, thê tử như y phục” và cho rằng “một người luôn sống vì mọi người thì sẽ rất đau khổ, nhưng nếu một người chỉ vì mình mà sống thì thật đáng thương” đó sao? Lý Tầm Hoan biết rằng nếu mình cứ tận hưởng tình yêu với Lâm Thi Âm mặc cho Long Tiêu Vân chết vì sầu khổ, đoạn đời còn lại chàng chẳng bao giờ có thể sống thanh thản. Họ Lý đã mượn cuộc rượu, mượn nhan sắc nhằm hạ thấp mình, âu đó cũng là cách lùi một bước để cho người mình yêu là Lâm Thi Âm có cơ hội lựa chọn kỹ càng hơn giữa một lãng tử như mình và một bậc sư huynh mà mình hằng kính trọng như Long Tiêu Vân. Quyết định lùi một bước có thể coi như một sự hy sinh, nhưng phải chăng cũng là một cách để Lý Tầm Hoan đánh giá thực chất tình cảm của Lâm Thi Âm dành cho mình chân thành đến mức nào? Cũng chính vì quá tin vào tình cảm của Lâm Thi Âm, nên Lý Tầm Hoan đã rơi vào vòng khổ luỵ. Nếu như tình yêu của Lâm Thi Âm dành cho Lý Tầm Hoan đủ lớn thì họ Lý đã chẳng thua chính canh bạc số phận do mình bày ra. Nhưng sự thật luôn phũ phàng. Lâm Thi Âm chỉ yêu một Lý Thám hoa phong nhã chứ không chấp nhận một Lý Tầm Hoan đầy tai tiếng. Cô đã chọn Long Tiêu Vân, âu đó cũng là sự lựa chọn thường tình của một nữ nhi luôn muốn tìm cho mình một chỗ dựa chắc chắn và bình ổn.

Vậy là Lý Tầm Hoan đã rơi vào vòng xoáy bi kịch của số phận. Anh ta đã thua trắng canh bạc tình cảm đầu đời và duy nhất trong cuộc đời của mình. Lý Tầm Hoan nhường lại toàn bộ gia sản cho Long Tiêu Vân, mang trong mình một trái tim rỉ máu biệt tích nơi biên viễn Tân Cương. Nơi xa xôi đó, họ Lý chỉ biết hàng ngày uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng dường như càng uống, tâm sự của họ Lý càng chồng chất.

Tuyết có rơi dày ngập vó ngựa cũng không thể dập tắt ngọn lửa tình yêu âm ỉ trong con tim đa cảm của họ Lý. Muốn đi xa để quên nhưng lại càng nhớ về chốn cũ. Muốn uống rượu để mong men rượu xoá nhoà đi hình ảnh của người yêu nhưng họ Lý chỉ tự lừa dối mình. Tiểu Lý không phải là kẻ dễ quên. Hắn không thể quên. Vậy nên Lý Tầm Hoan đã trở về. Trở về để lại phải đối mặt với những bi kịch và âm mưu khác.

Dường như sự trở về của họ Lý không được ai trông đợi cả. Trở về làm gì khi Lý gia trang giờ đã trở thành Hưng Vân Trang? Người ta có thể trách cứ khi Long Tiêu Vân dùng mọi thủ đoạn bỉ ổi để hạ bệ Lý Tầm Hoan. Tuy nhiên họ Long cũng có bi kịch của mình, khi biết rằng người vợ mà mình yêu dấu vẫn mang nặng trong tim hình bóng của Lý Tầm Hoan. Niềm tin về tình bằng hữu mà họ Lý đặt vào Long Tiêu Vân lại chính là một sai lầm tai hại của họ Lý. Long Tiêu Vân đủ nham hiểm để hiểu và lợi dụng Lý Tầm Hoan trong khi họ Lý đã đánh giá quá cao nhân cách Long Tiêu Vân.



Ưu điểm của Lý Thám hoa chính là sự trân trọng tình bằng hữu và nhược điểm của họ Lý cũng từ đây. Long Tiêu Vân giật dây những bằng hữu của hắn để vu vạ đổ cho Lý Tầm Hoan là Mai Hoa Đạo, một kẻ bại hoại gây ra những tội ác tày trời trong giới võ lâm. Lý Tầm Hoan bị bắt, bị nhốt như một tù nhân tại chính nơi mà mình đáng ra là ông chủ. May mà họ Lý còn có Tiểu Phi, một tay kiếm vô danh nhưng trong mắt Lý Tầm Hoan, đó là một tay kiếm với những phẩm chất bậc nhất. Tình bằng hữu đặt trong tay một chân quân tử như Tiểu Phi đã khiến người kiếm khách vô danh đó chẳng ngại ngần tìm mọi cách cứu Lý Tầm Hoan, để sau này cùng Tiểu Phi khám phá ra những bí mật kinh thiên động địa của giới võ lâm.

Trên giang hồ, Lý Tầm Hoan với ngọn phi đao danh bất hư truyền xứng đáng là con thần long vẫy vùng nơi sóng gió. Với võ công trác tuyệt, trí thông minh siêu phàm và bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, điều gì có thể làm cho Lý Tầm Hoan sợ hãi? Lý Tầm Hoan thản nhiên khi mọi người đều muốn tiêu diệt mình để lấy được Đệ nhất mỹ nhân Lâm Tiên Như. Lý Tầm Hoan ngạo nghễ nở nụ cười với ngọn phi đao trong tay trước cả quần tăng Thiếu Lâm Tự đang muốn ăn tươi nuốt sống mình. Lý Tầm Hoan vượt lên tất cả những cao thủ đương thời, có thể dửng dưng khi giai nhân Lâm Tiên Như không một mảnh vải che thân đứng trước mặt đầy khêu gợi. Lạnh lùng và bản lĩnh là vậy, thế nhưng trong tình cảm, họ Lý đôi khi chỉ như một chú cá ngu ngơ chẳng biết ngược hay xuôi theo dòng nước.

Anh ta có thể lật tẩy những mưu mô xảo trá và bẩn thỉu nhất của giới giang hồ. Ngọn phi đao danh bất hư truyền của họ Lý có thể đâm xuyên họng những cao thủ bậc nhất như Bá Hiểu Sinh, như Cực Lạc Đồng Tử, như Thượng Quan Kim Hồng. Thế nhưng lại không thể nhẫn tâm với một Long Tiêu Vân đầy thủ đoạn mà anh ta từng tôn làm sư huynh. Bất cứ kẻ nào dám nghi ngờ sức mạnh ngọn phi đao của Tiểu Lý cũng có thể trả giá bằng sinh mệnh, nhưng chỉ cần một tiếng thở dài của người mình yêu cũng đã khiến bản thân thọ thương. Khinh công thượng đẳng “Yến tử tam sào thuỷ” có thể giúp Lý Tầm Hoan chạy đua cùng chiến mã nhưng chẳng thể giúp Tiểu Lý chạy trốn được tình cảm. Con người của Lý Tầm Hoan là vậy, lạnh lùng mà cũng nồng nhiệt hết mực. Đó là một khối tình cảm phức tạp và đôi khi đầy mâu thuẫn.

Có lẽ Cổ Long không nên viết Hậu Tiểu Lý Phi Đao - Huyết Tâm Lệnh. Phải chăng vì quá thương cảm cho số phận bi kịch của Lý Thám hoa mà Cổ Long đã xây dựng nên hình ảnh cô gái Tôn Tiểu Hồng, người tin hiểu và vỗ về cho số phận của Lý Tầm Hoan. Kết cục đó có vẻ có hậu cho họ Ly, nhưng dường như nó cũng làm cho hình ảnh của một Lý Tầm Hoan - Tiểu Lý Phi Đao trở nên không còn toàn vẹn trong tính cách nữa...

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Đệ nhất cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung- Lâm Triều Anh

Trong số các nhân vật của Kim Dung thì nhân vật nữ thường là rất đẹp, thông minh và cũng rất giỏi võ công. Nhưng nhân vật võ công siêu phàm xếp vào hàng khai tông lập phái thì lại rất it, tiêu biểu nhất cho phái nữ có lẽ là  người sáng lập ra phái Cổ Mộ - Lâm Triều Anh




Trong một lần gặp gỡ Quách Tĩnh trên núi Toàn Chân, Khưu Xứ Cơ có nói về Lâm Triều Anh qua bài thờ được khắc trên đá. Ông ta nói người viết trên đó là nhân vật kiệt xuất trong võ lâm, thân thế vô cùng đặc biệt, văn võ toàn tài, phiêu dật tuyệt luân, tuy không phải là thần tiên, song cũng là nhân kiệt trăm năm mới có.

Lâm Triều Anh là người phụ nữ có liên quan đặc biệt đến cuộc đời Vương Trùng Dương, cách xuất hiện của bà cũng rất thú vị, trong lúc Vương Trùng Dương vì thua trận trước quân Kim, đã không còn chí hướng chôn thân trong ngôi cổ mộ thì Lâm Triều Anh đến trước mộ nhục mạ suốt 7 ngày đêm, Vương Trùng Dương không chịu nổi mới ra khỏi mộ để giao đấu, ra rồi mới hiểu được kẻ nhục mạ mình vì thiện ý, không muốn mình chôn vùi tài năng nên từ đó 2 người kết thân.

Lâm Triều Anh vốn có tình ý, muốn sau này kết phu thê với Vương Trùng Dương, nhưng vì sự nghiệp chống giặc chưa thành nên Vương Trùng Dương dù biết vẫn cố né tránh chuyện này, khiến cho Lâm Triều Anh đau khổ, dẫn đến trận quyết đấu với Vương Trùng Dương. Vốn là một người thông minh tuyệt đỉnh, bà đã thắng trong cuộc đấu và giành quyền giữ ngôi cổ mộ. Sau khi vào cư trú nơi này, Lâm Triều Anh tìm hiểu một số môn võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa ở đây, rồi nghiền ngẫm sáng chế cách khắc chế môn võ công đó viết nên bộ Ngọc Nữ Tâm Kinh.

Ngọc Nữ tâm kinh là môn võ công mà Lâm Triều Anh dành cả đời mình trong cổ mộ viết nên, cốt chỉ để khắc chế toàn bộ võ công của Vương Trùng Dương và phái Toàn Chân.
Có 1 lần sau khi Lâm Triều Anh qua đời trong cổ mộ, Vương Trùng Dương có đến ngôi cô mộ và thấy võ công "Ngọc nữ tâm kinh" được Lâm Triều Anh khắc lên  hết sức tinh vi ảo diệu, mỗi chiêu đều là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân, thì bất giác tái mặt, lập tức rời tòa nhà mồ, vào rừng sâu, ba năm liền không xuống núi, nghiền ngẫm cách hóa giải "Ngọc nữ tâm kinh", tuy một số chỗ có thành tựu, nhưng cuối cùng vẫn không tạo thành một bộ võ công hoàn chỉnh. Khâm phục tài trí của Lâm Triều Anh, cam bái hạ phong, không nghiên cứu nữa.

Ngọc nữ kiếm pháp  là khắc tinh của Toàn Chân kiếm pháp, chiêu thức nào cũng áp đảo chiêu thức của phái Toàn Chân, bước nào cũng đối đầu và chiếm tiên cơ, Toàn Chân kiếm pháp bất kể biến hóa cách nào, cũng không thoát nổi sự chế ngự của Ngọc nữ kiếm pháp. Môn võ công này cũng hết sức đặc biệt trong cách luyện tập, phải hai người luyện cùng ,hai người đó phải là nữ và khi luyện phải cỡi bỏ hết quần áo mà tập như theo cách lý giải : "Tâm kinh nói rằng khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, không có người, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng lập tức phát tán, không đọng lại chút nào trong cơ thể, nếu không nó sẽ tích uất bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh, nặng thì làm chết người".(Thực ra không nhất thiết phải là hai người nữ, nhưng khi luyện phải cỡi bỏ y phục nên một nam một nữ e là khó luyện cùng nhau)


Ngoài Ngọc Nữ Tâm Kinh thì Lâm Triều Anh còn sáng tạo ra hai môn võ khác là  "Băng phách ngân châm" và "Ngọc phong châm". "Ngọc phong châm" là loại kim châm mỏng manh như sợi tóc, chế bằng sáu phần vàng, bốn phần thép, tẩm qua chất độc của loài ong bò vẽ, tuy mỏng manh, nhưng chất vàng rất nặng, nên khi phóng có thể bay xa. Có điều là thứ ám khí này cực độc, Lâm Triều Anh chưa từng sử dung, từ trung niên trở đi, võ công đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, càng không cần dùng đến nó.

Lâm Triều Anh cho rằng mọi nam tử trên thế gian đều vô ân bạc tình, anh hùng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương còn thế, huống hồ kẻ khác. Lâm Triều Anh định ra môn qui, phàm là người được truyền y bát, tất phải thề suốt đời sống trong nhà mồ, không được rời khỏi núi Chung Nam, song nếu có một nam tử cam tâm tình nguyện chết thay, thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó.

Sau lần Luận kiếm, Vương Trùng Dương trở thành thiên hạ đệ nhất, sở hữu Cửu Âm chân kinh, ông xem qua và dựa vào đó nghĩ ra cách hóa giải được Ngọc Nữ tâm kinh nên đã đem "Cửu Âm chân kinh" khắc trong mộ để hậu nhân của phái Cổ Mộ biết được. Có điều là Vương Trùng Dương cho rằng, "Ngọc nữ tâm kinh" là do Lâm Triều Anh tự sáng tạo ra, còn mình thì phải dựa vào di thư của người khác, so ra kém một bậc, nên sau đó ông ta tự khiêm nhường, thường dặn đệ tử phải theo cái đạo nghiêm khắc với mình, nhường nhịn người khác, nhận phần thiệt thòi.

Lâm Triều Anh không thu nhận đệ tử, chỉ có một a hoàn hầu cận, hai người khổ thủ ở trong nhà mộ, hơn mười năm không ra ngoài. Bao nhiêu võ công kinh nhân, Lâm Triều Anh đều truyền thụ cả cho a hoàn. Nữ a hoàn ấy không đặt chân vào chốn giang hồ, dĩ nhiên không ai hay biết. Nữ a hoàn đó có thu nhận hai đệ tử. Một người là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, người kia là Tiểu Long Nữ.


Trong một lần kể chuyện với Quách Tĩnh, Khưu Xứ Cơ nói:" Luận về võ công, người ấy còn cao hơn cả bốn đại tông sư, nhưng vì là nữ, không xuất đầu lộ diện, nên ít ai bên ngoài hay biết."

Bốn đại tông sư mà Khưu Xứ Cơ muốn nói đấy chính là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái.

Quả thật thời ấy đương kim thiên hạ sánh ngang được với Vương Trùng Dương chỉ có Lâm Triều Anh, ai cũng là tuyệt đỉnh cao thủ, yêu thương nhau nhưng rồi kẻ xuất gia làm Đạo sĩ, người chôn vùi cả đời trong ngôi cổ mộ, sáng tạo ra những môn võ công chỉ để khắc chế lẫn nhau.








.

Đệ nhất cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung - Phong Thanh Dương

"Cái họ của tại hạ đã chẳng ra gì, cái tên lại không hay ho nốt. Họ là Nhậm tên lại là Ngã Hành. Nếu biết sớm chỗ này thì ngày trước kêu bằng Nhĩ Hành thật hay hơn nhiều. Hiện giờ đã kêu bằng Ngã Hành tức là làm gì cũng tùy theo ý mình, thích đi đâu là đi ngay tới đó."


Câu nói đó cho thấy được Nhậm Ngã Hành là một kẻ ngang tàng, ngạo mạn, nhưng một kẻ như vậy trong thiên hạ vẫn có "3 người rưỡi" khiến y nể phục.

- Trụ trì chưởng môn phái Thiếu Lâm Phương Chứng đại hòa thượng

- Giáo chủ Thần giáo đương thời Đông Phương Bất Bại

- Hoa Sơn Kiếm Tông Phong Thanh Dương

- Chưởng môn phái Võ Đang Xung Hư đạo trưởng 


Dường như sự nể phục của Nhậm Ngã Hành đối với "3 người rưỡi" đó cũng không hề như nhau. Cách nể phục của ông ta với Phương Chứng đại sư là sự nể phục dành cho một đối thủ ngang tầm với ông ta. Với Đông Phương Bất Bại thì đó là sự nể phục kèm theo thù hận. Với Xung Hư đạo trưởng thì chỉ có 5 phần mà thôi, và với Nhậm Ngã Hành thì Xung Hư tài giỏi nhưng chưa chắc đánh thắng ông ta. 




Sự khâm phục của ông ta đối với Phong Thanh Dương không chỉ nể phục về kiếm thuật và đây còn là sự kính trọng đối với nhân cách, con người Phong Thanh Dương.


Phái Hoa Sơn có nhiều môn đồ, võ công chia làm 2 đường kiếm và khí, cao thủ lại không nhiều nhưng chỉ với 1 Phong Thanh Dương thôi cũng làm rạng danh Hoa Sơn phái.Tuy nhiên thực tế võ công Hoa Sơn ta thấy không phải là tuyệt đỉnh thiên hạ, từ thời khai tông lập phái cho đến thời Lệnh Hồ Xung có cả thảy 3 nhân vật gây tiếng tăm là Phong Thanh Dương, Nhạc Bất Quần, và Lệnh Hồ Xung. Phong Thanh Dương cùng Lệnh Hồ Xung lừng danh với môn Độc Cô Cửu Kiếm chứ không phải võ công bổn môn Hoa Sơn. Nhạc Bất Quần là đại diện cho phe Khí tông với môn Tử Hà Thần Công, tuy vậy kẻ đứng đầu môn phái lại bỏ võ công bổn môn để theo học môn kiếm pháp khác là Tịch Tà kiếm pháp.




Từ kẻ kiêu ngạo như Nhậm Ngã Hành hay người đức cao vọng trọng như Phương Chứng, Phương Sanh, Xung Hư cho đến kẻ tiểu tốt như Điền Bá Quang, khi nhắc đến Phong Thanh Dương đều thể hiện một sự tôn kính rõ ràng. Với kiếm thuật thần thông, ông được người đời tôn thờ nhưng oái ăm thay một kẻ thiên hạ vô địch lại chẳng có tâm tranh quyền đoạt lợi, ông ta phiêu diêu tự tại, chẳng màn thế sự, có lẽ việc gặp và truyền thụ võ công cho Lệnh Hồ Xung xem như là cái "duyên" cuối cùng trong cuộc đời của Phong Thanh Dương. Trong cuộc đời mình, Phong Thanh Dương vỏn vẹn gặp được 3 người mà ông ta thừa nhận là cao thủ thượng thặng, nhưng tiếc tay Kim Dung không cho ta biết 3 người đó là ai, nếu được ta cũng muốn biết xem ai mà được vị tuyệt thế cao thủ này đánh giá cao vậy.

Ta cũng không rõ cái tự do tự tại đó là vui hay buồn, là hạnh phúc hay né tránh thế sự nhiễu loan hay đó là sự cô độc của một tuyệt thế cao thủ. Dù thế nào thì Hoa Sơn Kiếm Tông Phong Thanh Dương hoàn toàn xứng đáng được coi là "Đệ nhất cao thủ"


Đệ nhất cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung - Hoàng Thường

Vào thời nhà Tống, vô số cao thủ, bang phái trên giang hồ tranh giành bộ bí kíp Cửu Âm Chân Kinh. Các cao thủ quyết định tụ họp ở đỉnh Hoa Sơn để định ra người mạnh nhất, người được xem là đệ nhất sẽ sở hữu bộ bí kíp này vì lí do đơn giản chẳng kẻ nào dám đến cướp bí kíp võ công trong tay người mạnh nhất thiên hạ. Cuối cùng họ cũng bầu ra được 5 người mạnh nhất gọi là Thiên hạ ngũ tuyệt gốm : Vương Trùng Dương Trung Thần Thông, Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Trí Hưng, Bắc Cái Hồng Thất Công. Trong 5 người thì người được xem mạnh nhất là Vương Trùng Dương và hiển nhiên ông ta sẽ là người giữ lấy bí kíp Cửu Âm Chân Kinh. Ở đây ta không nói về Thiên Hạ Ngũ Tuyệt này mà xin nói về người viết nên bộ bí kíp thượng thặng này đó là "Thế ngoại cao nhân" Hoàng Thường.



Trong Xạ điêu anh hùng truyện viết năm 1957, Kim Dung nói về xuất xứ của Cửu âm chân kinh như sau: Tương truyền Đạt Ma sư tổ của phái Thiếu Lâm lúc mới từ Tây Trúc sang Trung Quốc đã giao chiến với nhiều võ sĩ trung thổ và có thắng, có bại. Sau đó, ông lui về ở ẩn, quay mặt vào tường suốt 9 năm, thấu triệt được các tinh hoa võ học rồi viết thành bộ Cửu âm chân kinh. 

Trong bản mới đã được sửa chữa, Kim Dung mượn lời Lão Ngoan đồng Châu Bá Thông, sư đệ Vương Trùng Dương - giáo chủ Toàn Chân giáo, cho rằng bí kíp Cửu âm chân kinh là do Hoàng Thường viết. Theo đó, Hoàng Thường là một vị quan “thế ngoại cao nhân”. Thời Bắc Tống, hoàng đế Huy Tông hạ chiếu tập hợp tất cả di thư của đạo gia trong thiên hạ để làm bộ Vạn thọ Đạo tạng và Hoàng Thường phụ trách trông coi việc khắc in. Vì sợ khắc lầm chữ sẽ bị tội khi quân nên ông đã dồn hết tâm trí để đối chiếu cẩn thận từng câu chữ. Dần dần, Hoàng Thường trở nên tinh thông Đạo học, ngộ ra được tầng sâu của võ công. Ông theo đó tu luyện cả nội - ngoại công, trở thành cao thủ. Về sau, vua Huy Tông phái Hoàng Thường đem binh đi tiêu diệt Ma giáo (Minh giáo). Ông đánh bại nhiều cao thủ nhưng bị trọng thương phải đi trốn. Ở nơi núi hoang, Hoàng Thường nhớ lại những chiêu thức võ công của các địch thủ để tìm cách phá giải. Hơn 40 năm sau, khi đã triệt ngộ, ông muốn hạ sơn báo thù thì kẻ thù xưa đã qua đời hết. Hoàng Thường bèn đem những công phu thượng thừa của các môn phái viết thành Cửu âm chân kinh.

Có thể nói Hoàng Thường sau khi hoàn thành bộ võ công, ông trở thành thiên hạ vô địch nhưng rốt cục muốn trả thù cũng không làm được, một hướng khác của kẻ vô địch trong cô độc. Tuy vậy sự tài giỏi của ông đã được thể hiện thông qua võ công trong bộ Cửu Âm Chân Kinh ông để lại cho hậu thế sau này, để rồi cũng như bao môn võ công thượng thặng khác đã gây nên những cuộc tranh giành đẫm máu trên giang hồ

Cửu Âm Chân Kinh bao gôm 2 quyển thượng và hạ, Mai Siêu Phong chỉ học một phần nhỏ đã gây nên nổi khiếp sợ trên giang hồ. Cẩm Âm Chân Kinh còn có ảnh hưởng đến võ công của một số cao thủ khác như Dương Quá, Hồng Thất Công, Chu Bá Thông, Âu Dương Phong,Lâm Triều Anh, Chu Chỉ Nhược, Quách Tĩnh.

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Đệ nhất cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung - Độc Cô Cầu Bại

Nhà văn Kim Dung tạo ra rất nhiều nhân độc đáo tuyệt vời, một trong những nhân vật mà nghe cái tên thôi ta cũng có "ấn tượng" rất đặc biệt, cái tên mà nghe thôi cũng đã đoán được cái sự "vô địch" rồi . Đó là  Độc Cô Cầu Bại.



-Tuy nhiên nhân vật này không hiện hữu thực sự, mà chỉ qua lời kể, qua di sản võ công cùng với cái uy danh để lại. Độc Cô Cầu Bại kiếm thuật vô song, thông minh tuyệt đỉnh, tung hoành thiên hạ, cả đời không có địch thủ, chỉ mong có được 1 lần thất bại hay mong có người khiến cho ông quay kiếm về phòng thủ.

Có một chút khác lạ là sự xuất hiện khác nhau trong 2 tác phẩm Thần điêu hiệp lữ và Tiếu ngạo giang hồ. Trong Thần điêu hiệp lữ thì Độc Cô Cầu Bại để lại cho đời sau 5 chú giải triết lí của bốn thanh kiếm gồm :

Cương kiếm

Cương mãnh lợi hại, cứng mấy cũng xuyên,

Thời trẻ dùng để tranh đấu với quần hung

Tử vi nhuyễn kiếm

         
Tử Vi nhuyễn kiếm, dùng trước ba mươi tuổi,

Lỡ tay đả thương nghĩa sĩ, bèn vứt xuống vực sâu.
 
Huyền thiết trọng kiếm


        
Trọng kiếm thô sơ, không hề gia công.

Trước bốn mươi tuổi, tung hoành thiên hạ.

Mộc kiếm

   
         
Sau bốn mươi tuổi, không mang binh khí,

Thảo mộc trúc thạch đều có thể dùng làm kiếm.


Vô kiếm



          Cứ thế tinh tu, đạt tới cảnh giới vô kiếm thắng hữu kiếm.



Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ thì Độc Cô Cầu Bại được biết đến qua lời kể của Hoa Sơn Kiếm Tông Phong Thanh Dương. Ta cũng không rõ Phong Thanh Dương học được môn Độc Cô Cửu Kiếm này từ chính Độc Cô Cầu Bại hay là từ hậu nhân của Độc Cô Cầu Bại, hoặc là học được qua cơ duyên như Dương Quá. Cũng không rõ Độc Cô Cầu Bại sống vào thời nào.


Có nhiều ý kiến cho rằng Độc Cô Cầu Bại vô địch ở thời của ông ta vì lúc đó không có cao thủ thực sự, nói vậy có thể bảo rằng Độc Cô Cầu Bại "hên" và "gặp thời" .

Tuy nhiên, ta thử kiểm lại xem nhưng nhân vật hậu thế mà được học, thừa hưởng những tinh hoa võ công của Độc Cô Cầu Bại xem họ thế nào.

-Dương Quá không phải học võ công của Độc Cô mà chỉ ngộ ra được triết lý võ học của ông, từ đó kết hợp với võ công bản thân để sau này trở thành cao thủ.Với Dương Quá ta chưa thực sự thấy rõ lắm sự lợi hại của Độc Cô Cầu Bại. Nhưng Phong Thanh Dương và Lệnh Hồ Xung với môn Độc Cô Cửu Kiếm thì lại khác. Phong Thanh Dương được xem là đệ nhất cao thủ lúc bấy giờ với võ công Độc Cô Cửu Kiếm, Lệnh Hồ Xung cũng học môn này, nhưng khi giao đấu với môn Qùy Hoa Bảo Điển của Đông Phương Bất Bại thì lại thua kém, khiến cho người ta nghĩ Độc Cô Cửu Kiếm cũng tầm thường mà thôi. Nhưng Phong Thanh Dương đã nói  : "Cũng là kiếm pháp phái Hoa Sơn, cùng một chiêu thức, thế mà mỗi người sử uy lực mạnh yếu khác nhau xa thì "Ðộc cô cửu kiếm" cũng vậy. Dù ngươi có học được "Ðộc cô cửu kiếm" mà lúc sử dụng lại không thuần thục thì chẳng thể nào địch nổi những tay cao thủ thông thường hiện nay." Ta hiểu rằng lúc đó Lệnh Hồ Xung "học nghệ chưa thông".

Với cơ thể không dùng nội công đã lợi hại về kiếm pháp, sau này kết hợp Dịch Cân Kinh và Hấp Tinh Đại Pháp, Lệnh Hồ Xung đã được xem là Độc Cô Cầu Bại tiếp theo.

Những hậu nhân ở thời đại khác sử dung võ công của ông đã trở thành thiên hạ vô địch, vậy có lý nào ông lại là "chột làm vua xứ mù" thời kỳ nào đó ?


Có 1 điều nếu ai đã từng xem qua các tiểu thuyết nói về kiếm thuật, thì cảnh giới tối cao là vô chiêu thắng hữu chiêu, đây chính là triết lý võ học của Độc Cô Cầu Bại (ngoài đề một chút là Lý Tiểu Long cũng từng nói đến cảnh giới cuối cùng này trong võ học) hay nói cách khác Độc Cô Cầu Bại là biểu tượng cho đỉnh cao về võ học mà con người đạt đến.

Đệ nhất cao thủ trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung : Vô Danh Thần Tăng

Trong thế giới kiếm hiệp của Kim Dung ta thấy có rất nhiều nhân vật được tác giả miêu tả với một thân võ công tuyệt đỉnh. Đã có rất nhiều sự so sánh, nhiều tranh cãi xem môn võ công nào là cao siêu nhất, người nào là cao thủ số một.

Quả thật, mang ra so sánh, cân đo ai mạnh hơn ai rất là khó và cũng sẽ gấy nên rất nhiều tranh luận. Thôi thì ta không so sánh ai là "đệ nhất", ta chỉ liệt kê ra tên tuổi những cao thủ và những môn võ công của họ mà thôi.

Như đã nói trên là ta không so sánh, nên việc xướng tên người nào trước sau không có nghĩa là họ giỏi nhất, giỏi hơn người khác. Và trước tiên xin chon một hướng đi có vẻ "đại chúng" là nêu tên những nhân vật để lại những ấn tượng "mạnh mẽ" nhất về khái niệm "đệ nhất cao thủ".


                              -------------------------Vô Danh Thần Tăng------------------------


. Trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ có một nhân vật mà có lẽ ai xem qua tác phẩm này cũng thừa nhận đây là "đệ nhất". Đó là "nhà sư già quét rác". Kim Dung miêu tả ông như sau:

"....một nhà sư già gầy ốm mặc áo bào xanh tay cầm cây chổi, đang khom lưng quét dọn. Nhà sư đó tuổi tác đã cao, cằm lưa thưa mấy sợi râu cũng đã bạc trắng, hành động chậm chạp, hữu khí vô lực, không ra vẻ người có võ công."



Ông cũng chẳng nhớ rõ là ông ở chùa bao nhiêu lâu rồi, là bốn mươi hai năm, bốn mươi ba năm và...tối hôm đầu tiên khi Tiêu Viễn Sơn đến xem kinh thì ông ta ở đây hơn chục năm.

Kim Dung không mô tả nhiều lắm về võ công của ông nhà sư này, nhưng qua các tình tiết ta cũng tự hiểu được :

+ Khi ông sư già đang giảng cho quần hung thì Cưu Ma Trí không phục đã vận một trong 72 tuyệt kỹ của Thiếu Lâm là Vô Tướng Kiếp Chỉ nhắm vào nhà sư mà đánh nhưng chỉ lực chỉ đến cách nhà sư chừng ba thước liền đụng phải một bức tường mềm nhũn, nhưng cũng hết sức cứng rắn chặn lại, chỉ lực liền tan biến không còn dấu vết gì, nhưng cũng không bật ngược lại.

+ Huyền Sinh, Huyền Diệt thi hành lễ với nhà sư già, ông ta bảo cả hai đứng lên .Huyền Sinh, Huyền Diệt không thấy nhà sư giơ tay hay phất tay gì cả nhưng thấy một luồng lực khí nhu hoà nhẹ nhàng nhắc mình lên không gượng được quả là lạ lùng, nghĩ thầm thần công tiềm vận như thế này, tâm đến đâu, lực đến đó, có lẽ đây là bồ tát hóa thân, nếu không sao có thần thông quảng đại, Phật pháp vô biên như vậy?

+ Võ học gia truyền nhà họ Cô Tô Mộ Dung vốn dĩ rất cao siêu, lại nghiên cứu bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ấy vậy mà vị lão tăng chưởng nhẹ nhàng đánh xuống, trúng ngay huyệt Bách Hội, Mộ Dung Bác chỉ dãy được một cái, ngã bật ngửa ra tắt thở ngay. Mộ Dung Phục thấy thân phụ bị đánh chết liền dung song chưởng cùng đánh vào vị lão tăng..."chưởng của Mộ Dung Phục đánh đến trước ngực ông ta chừng hai thước bỗng như chạm phải một bức tường vô hình, lại như rơi vào một cái lưới cá, chưởng lực tuy mạnh nhưng không có cách nào thi triển mà bị bức tường kia bật ngược lại đụng vào một giá sách. Chưởng lực của y vốn cương mãnh sức bật trở lại hẳn rất khủng khiếp ngờ đâu bị bức tường vô hình hóa giải tất cả, rồi nhẹ nhàng đẩy y ra, lưng đụng vào kệ sách nhưng không đổ mà những sách trên kệ cũng không rơi xuống".

+ Sau khi đánh chết Mộ Dung Bác, vị lão tăng lý giải : "Mộ Dung thiếu hiệp nếu như giết ông, con ông thể nào cũng giết Mộ Dung thiếu hiệp trả thù, cứ thế oan oan tương báo, đến bao giờ mới dứt được? Chi bằng bao nhiêu tội nghiệt đều đổ lên đầu ta cho xong". Và ông tiếp tục dung chưởng đánh xuống đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Phong được thiên hạ xem là đệ nhất cao thủ bấy giờ, vì cứu phụ thân nên Tiêu Phong cũng dùng hết công lực ấy vậy mà vẫn không cứu được thân phụ. Vị lão tăng mang Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác chạy ra ngoài, Tiêu Phong đuổi theo nhưng lạ lùng thay Tiêu Phong hết sức đuổi theo, gió núi vù vù bên tai như dao cắt, đủ biết nhanh là chừng nào, nhưng vẫn cách nhà sư chừng hai ba trượng, tuy liên tiếp đánh ra nhưng chưởng vẫn chỉ vào khoảng không. Tiếp đó là 1 cảnh tượng chẳng ai dám tin, vị lão tăng dùng chưởng đánh chết người giờ lại cứu cả 2 sống trở lại.


+ Với những tình tiết đó ta có thể thấy được sự "thần thông quảng đại" của vị lão tăng này. Nhưng tôi từng có một thắc mắc, Kim Dung tạo ra nhiều cái tên nghe rất lạ, rất hay, rất chướng, rất độc đáo cho từng nhân vật, vậy tại sao ông không dành cho vị cao tăng này một cái tên, mà chỉ gọi đơn giản là vị lão tăng, ông sư quét rác, vô danh lão tăng. Vỡ ra rằng, đây không còn là cái danh, cái sinh, cái tử,..tất cả rốt ráo là vô,vô danh, vô sắc, vô cầu, vô thị, vô thường, vô tướng, vô ngã. Trước Phật tất cả trở về với bản ngã của mình, cái danh có nghĩa gì đâu. Dù có đặt cho cái tên thật hay, miêu tả võ công thật cao minh cỡ nào rồi cũng trở về với cõi thật mà thôi. Và ta để ý rằng cách xử lý các vấn đề của lão tăng này đều là hóa giải, hướng người ta làm thiện, theo Phật . Cho nên ta dù có "xếp" ông vào hàng nhất cũng là vô nghĩa.

“Thập đại Mỹ nhân trong Kim Dung tiểu thuyết ”

-Vũ Đức Sao Biển-

Mỹ nhân thì bao giờ chẳng có. Ngay trong cuộc sống của chúng ta, hàng năm vẫn có những cuộc thi bình chọn hoa hậu, người đẹp thời trang, diễn viên điện ảnh…; đã có những ban giám khảo nghiêm túc và nghiêm khắc nhất thay mặt cuộc đời phán xét, cân đong đo đếm các thứ kích cỡ cà trao vương miện cho các mỹ nhân, đâu chờ đến thứ như tôi bình bầu. Cũng có những ý kiến nghi ngờ các mỹ nhân sống giữa cuộc sống chúng ta: kiến thức nghèo nàn lạc hậu khiến các bạn có những câu trả lời vớ vẫn; cái đẹp nội tâm không đạt; tư duy sống không đẹp đưa đến tình trạng kinh doanh nhan sắc, dùng nhan sắc như một thứ mồi câu phú quí. Đại để, các hoa hậu và á hậu đã để lại một cái hậu không lấy chi làm ngọt ngào cho cuộc sống khiến đời buồn vô hậu. Tôi không dám bàn về những mỹ nhân đó chứ đừng nói đến bình bầu. Cho nên trong phạm vi chương này, tôi chỉ dám bình bầu Thập đại Mỹ nhân trong… truyện võ hiệp Kim Dung; những người chưa hề dự thi một cuộc thi hoa hậu, người mẫu, diễn viên nào; những người chưa từng tuyên bố huyênh hoang rồi sau đó đi lấy người… ngoại quốc. Thế giới các mỹ nhân mà tôi đề cập đến thế giới của truyện võ hiệp và sự “bình bầu” này đương nhiên là cách đánh giá rất chủ quan căn cứ vào ba tiêu chuẩn nhan sắc, tài năng, tâm hồn. Tôi chỉ dám chọn 10 người bởi vì đưa ra nhiều quá, e rằng có lỗi với cái đẹp, một vốn trời ban cho con người muôn nơi, muôn thủa. Danh sách tôi “bình bầu” như sau:

1. Triệu Mẫn

Đây nguyên là Hán danh của một cô gái Mông Cổ. Tên thật của cô là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, con gái của Nhữ Nam vương, người chỉ đứng sau vua nhà Nguyên, nắm hết quyền bính chính trị và quân sự cai trị toàn Trung Quốc. Cô là nhân vật nữ chính trong Ỷ thiên Đồ long ký, một cô gái đẹp như hoa nở, không một cô gái Trung Hoa nào có thể sánh kịp. Tham vọng của Triệu Mẫn rất lớn: muốn tụ họp bọn giang hồ, đặc biệt là phiên tăng Tây Vực, triệt hạ sáu đại môn phái của Trung Hoa đang nuôi mộng chống đối nhà Nguyên là Thiếu Lâm, Võ Đang, Cái bang, Hoa Sơn, Không Động và Côn Lôn.
Lần đầu tiên cô đã bao vây được các thủ lĩnh của Minh giáo và đã nhốt được Trương Vô Kỵ dưới hầm sâu. Nhưng Vô Kỵ vốn là thầy thuốc, võ công lại cao cường, đã khống chế cô và “tra tấn” cô bằng cách dồn Cửu Dương công vào gan bàn chân khiến cô ngứa ngáy, khó chịu phải đầu hàng, thả chàng ra. Chính việc “cù chân” đó đã làm nảy sinh trong lòng cô mối tình ôn nhu với chàng Trương Vô Kỵ. Cô đã đem Hắc ngọc đoạn tục cao tặng cho chàng để chàng chữa trị vết thương cho tam sư bá, chuộc lại lỗi lầm cho cha mẹ mình ngày xưa. Thông minh, lém lỉnh, chân tình, Triệu Mẫn trước sau vẫn giữ cốt cách của một phụ nữ giàu tình cảm hơn là một quận chúa Mông Cổ. Cô đánh nhau với Trương Vô Kỵ để rồi đêm đêm, lại ra quán rượu ngồi đợi chàng trai, mong cùng đối ẩm với nhau mấy chung và quên hết những chuyện đốt chùa, giết người Mông Cổ, cứu quần hùng Trung Hoa của tập thể Minh giáo.
Cuộc đời của cô là một chuỗi tháng ngày rong ruổi theo tình yêu. Vô Kỵ đi đâu, cô mong được đi theo anh đến nơi đó, dù chân trời hay góc bể. Cách tỏ tình của cô cũng rất rõ ràng, giản dị không e dè khép nép như những cô gái Trung Hoa. Cô đã cầm Ỷ thiên kiếm, lăn xả vào đám sứ giả Ba Tư và đánh những chiêu cận chiến có thể khiến mình và kẻ thù cùng chết để cứu chàng Trương Vô Kỵ. Khi Vô Kỵ hỏi tại sao cô liều mạng như vậy, cô đã trả lời thẳng thắn: vì Trương Vô Kỵ ôm lấy Hân Ly trước mặt cô. Thời thơ ấu, Vô Kỵ đã cắn vào bàn tay Hân Ly một cái đến chảy cả máu, khiến Hân Ly nhớ hoài hình bóng Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn cũng làm như thế: cô cắn vào tay Trương Vô Kỵ một nhát để Trương Vô Kỵ nhớ cô trọn đời. Thực ra cô không làm như vậy thì cũng đủ để chàng Vô Kỵ chọn cô làm người bạn gái tâm đầu ý hợp. Thậm chí khi Vô Kỵ đã bị vây, sắp bị quân Nguyên bắt, cô đã nói dối cha và anh rằng nếu họ giết Vô Kỵ thì cô cũng tự tử theo chàng cho trọn mối tình. Đoạn tiểu thuyết thuật lại chuyện Triệu Mẫn xin cha và anh tha cho Trương Vô Kỵ thật đầy kịch tính. Tôi kính phục người phụ nữ có một tình yêu tha thiết và trái tim dũng cảm như Triệu Mẫn. Tình yêu bao la đó đã được chàng Trương Vô Kỵ đền đáp một cách xứng đáng: anh đã nhường ngôi giáo chủ Minh giáo lại cho Dương Tiêu, cùng Triệu Mẫn dắt tay rong chơi bốn biển năm hồ. Và mỗi khi lông mày Triệu Mẫn đã nhạt thì theo ba điều ước hẹn với cô, anh lại làm công việc hợp với lương tâm, không đi ngược lại với quyền lợi võ lâm Trung Hoa và cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc chống quân Nguyên giành lại đất Trung Quốc cho người Hán tộc: cầm cây bút và vẽ lại lông mày cho Triệu Mẫn.
Tôi chọn Triệu Mẫn vào ngôi vị đệ nhất đại mỹ nhân, một cô gái Mông Cổ vượt xa ngàn hoa Hán tộc hẳn là điều dễ khiến chúng ta nghi ngờ. Nhưng rõ ràng tác giả Kim Dung muốn vậy. Và có lẽ điều này phản ánh chủ nghĩa dân tộc tiến bộ của chính ông. Hoá ra người Mông Cổ – dân tộc sống trên đất nước phiên bang, dân tộc mà người Hán thường khinh bỉ xếp vào loại Di Địch vẫn sáng lung linh một đoá hoa hương sắc, tài năng, thông minh, chung tình: Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ.

2. Tiểu Siêu

4
Người thứ hai tôi chọn làm đệ nhị mỹ nhân là cô gái chỉ có một nửa huyết thống Hán tộc; nửa còn lại thuộc huyết thống Ba Tư, nghĩa là cũng thuộc loại Di Địch dưới mắt nhìn của Hán tộc. Cha cô là Hàn Thiên Diệp, người Hán; mẹ cô là Đại Ỷ Ty, thánh sứ nữ của Bái hoả giáo Ba Tư. Tiểu Siêu thâm nhập Trung Hoa qua con đường tơ lụa lúc cô mới 15 tuổi. Mẹ cô nguyên là thánh sứ nữ, dáng lẽ phải giữ mình trong trắng để về Ba Tư lên ngôi giáo chủ. Nhưng bà đã yêu chàng trai Hàn Thiên Diệp, phản lại giáo quy của Bái hoả giáo, đáng lẽ phải lên giàn hoả thiêu. Bà hoá trang thành một người đàn bà xấu xí tên là Kim Hoa bà bà. Tiểu Siêu phải làm một việc khó khăn để chuộc lỗi cho mẹ: tìm mọi cách thâm nhập Quang Minh Đính của Bái hoả giáo Trung Hoa và lấy cho được bộ Đại nã di tâm pháp của Bái hoả giáo – nhiệm vụ mà mẹ cô không hoàn thành.
Giống lai bao giờ cũng được thừa hưởng những nét ưu tú rực rỡ của cả cha và mẹ, nên Tiểu Siêu đẹp cái đẹp rực rõ ngay từ khi 15 tuổi. Nhưng Dương Tiêu, Tả sứ của Minh giáo Trung Hoa, là một tay cơ trí, khó mà qua mắt đươc y. Cho nên, để đóng trọn vai trò con hầu của Dương Bất Hối, con gái Dương Tiêu, Tiểu Siêu đã phải làm một việc rất khó khăn: giả vờ méo miệng trong suốt thời gian ở cạnh Bất Hối. Cô học thuộc hết lý thuyết về âm dương, bát quái trận đồ, biết nhiều võ công nhưng chẳng bao giờ hé lộ. Cha con Dương Tiêu nghi ngờ cô, đã đem dây xiềng quấn chân cô; cô đi đâu tiếng dây xiềng leng keng đến đó. Điệp vụ của Tiểu Siêu là một điệp vụ cực kì gian nan và cô đã tìm ra được đường hầm trên Quang Minh Đính.
Khi Vô Kỵ lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đầu tiên của anh là hứa sẽ tháo xiềng khoá cho Tiểu Siêu. Nhờ Tiểu Siêu chỉ dẫn, Trương Vô Kỵ tìm ra đường hầm, tìm được Càn khôn đại nã di tâm pháp và đại triển thần lực đẩy được hai cánh cửa đá để bảo toàn lực lượng Minh giáo của Trung Hoa. Tiểu Siêu trở thành con hầu của Trương Vô Kỵ, lặng lẽ thương yêu Trương Vô Kỵ. Cũng như Triệu Mẫn, Vô Kỵ đi đến đâu, Tiểu Siêu đi đến đó, và cô đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình: cầm cờ Minh giáo để chỉ huy năm đội Ngũ hành kỳ chống đỡ không cho quân Nguyên xông vào bắt giết những thủ lĩnh của Minh giáo. Tiểu Siêu sẽ không bao giờ nói rõ thân phận của mình cho Vô Kỵ biết nếu không có ngày tình cờ gặp lại mẹ mình đang bị đưa lên giàn hoả thiêu của Bái hoả giáo Ba Tư. Để cứu mẹ, cô phải nói rõ với các Bảo thụ vương Ba Tư rằng cô là trinh nữ, sẵn sàng thay mẹ về Ba Tư lên ngôi giáo chủ Bái hoả giáo. Cô nói tiếng Ba Tư lưu loát cho đến khi những người Ba Tư quỳ xuống tung hô thì Vô Kỵ mới biết rằng con hầu của mình chính là thánh sứ nữ của Bái hoả giáo Ba Tư.
Lần cuối cùng được phục vụ thay áo, dóc tóc cho Trương Vô Kỵ, Tiểu Siêu mới nói thật tình yêu của mình dành cho Vô Kỵ và điệp vụ của mình trên Quang Minh Đỉnh. Họ ôm nhau, hôn nhau, nước mắt chảy dài ướt đẫm vạt áo chàng Trương. Năm đó, có lẽ Tiểu Siêu 18 và Vô Kỵ mới 22. Tôi chưa bao giờ đọc một đoạn văn nào tràn đầy xúc động như đoạn văn Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển. Tình yêu của hai người sao mà đẹp đến thế; đẹp đến nỗi Vô Kỵ không cần lau nước mắt trước mặt Triệu Mẫn, người tình của mình đang đứng đấy. Tiểu Siêu về Ba Tư, đi theo con đường tơ lụa. Trương Vô Kỵ chỉ còn biết trông theo, tưởng như tiếng khóc của cô còn vọng đâu đây trong tiếng gió, tiếng sóng.
Trong văn chương Trung Hoa, tiếng “tướng công” được hiểu theo hai nghĩa: (1) Tiếng của người hầu gọi ông chủ và (2) Tiếng của người vợ gọi chồng. Tôi nghĩ Kim Dung dùng chữ tướng công cho Tiểu Siêu gọi Vô Kỵ với cả hai nghĩa trên. Cái đẹp của mối tình Tiểu Siêu – Vô Kỵ là họ gần nhau suốt mấy năm vẫn giữ được sự trong trắng. Tiểu Siêu nhờ vẫn còn là trinh nữ nên mới cứu được mẹ khỏi tội hoả thiêu. Chữ tình, chữ hiếu ở cô gái lai này rất rõ ràng, khiến tôi càng kính phục cô hơn và bình bầu cô làm đệ nhị đại mỹ nhân.

3. Hân Tố Tố
Hân Tố Tố là con gái của Hân Thiên Chính, giáo chủ Bạch mi giáo, một tà giáo hoạt động trên sông Trường Giang. Bản thân cô cũng là một đường chủ – Tử vi đường đường chủ. Hân Tố Tố là một cô gái giết người không gớm tay: chính cô đã giết chết 72 người trong Long Môn tiêu cục, bởi tiêu cục này không hoàn thành hợp đồng đưa Dư Đại Nham (đang bị thương) về trao trả cho phái Võ Đang. Nữ ma đầu này có nụ cười rất lãng mạn, say đắm lòng người. Kim Dung không trực tiếp mô tả nhan sắc của cô, mà chỉ thuật rằng khi mới gặp cô, hai kiếm khách của phái Côn Lôn là Tương Đào và Cao Tắc Thành đã gần như đứng tim, líu lưỡi. Rồi họ sinh ra đánh nhau, đâm chém thật tình như hai kẻ thù không đội trời chung.
Hân Tố Tố và Trương Thuý Sơn, đệ tử thứ năm của phái Võ Đang, gặp nhau trong tình huống khá lạ lùng: Trương Thuý Sơn vâng lệnh thầy xuống bảo vệ cho gia đình của Đỗ Đại Cẩm, tổng tiêu đầu của Long Môn tiêu cục trong khi Hân Tố Tố lại hoá trang như Trương Thuý Sơn để giết chết 72 mạng của tiêu cục này và một số đệ tử khác phái Thiếu Lâm. Cho nên món nợ của vụ huyết án đó đều trút lên đầu của Trương Thuý Sơn. Trương Thuý Sơn gặp cô lần đầu tiên dưới tháp Lục Hoà, bên sông Tiền Đường. Lối bày tỏ tình yêu của Hân Tố Tố rất lạ: cô đập mạnh cho ba nũi Mai hoa châm đâm sâu vào cánh tay trắng như tuyết của mình để được Trương Thuý Sơn dùng nội công tâm pháp của phái Võ Đang chữa trị. Trương Thuý Sơn là đệ tử danh môn chính phái, rất căm thù Bạch mi giáo nên không muốn gần gũi Hân Tố Tố. Nhưng hoàn cảnh đã nối kết họ lại với nhau: hai người đi Vương Bàn Sơn để dự lễ dương đao Đồ Long lập oai của Bạch mi giáo; Tạ Tốn đã đến cướp đao và thấy họ là một đôi nam thanh nữ tú không nỡ giết đi nên đã bắt cóc họ, buộc họ đến Băng Hoả đảo với lão đểgiữ bí mật về Đồ Long đao. Chính Hân Tố Tố vì cứu Trương Thuý Sơn nên đã dùng kim châm bắn mù đôi mắt của Tạ Tốn. Họ trốn lên Băng Hoả đảo, ăn ở với nhau và sinh ra chàng Trương Vô Kỵ.
Hân Tố Tố là một nữ ma đầu cực kì thông minh, thuộc hết sách của Trang Tử. Trang Tử là một triết gia mà tất cả các đạo gia Trung Hoa như phái Võ Đang đều tu dưỡng và học tập theo. Cô đọc cho Trương Thuý Sơn bài Thu thủy của Trang Tử: “Nước của thiên hạ không đâu lớn bằng biển, muôn vạn sông ngòi đều đổ về biển, không biết bao giờ nước những sông ngòi đó mới ngừng chảy và biển mới không đầy như thế này”. Khi nghe Thuý Sơn trả lời: “Dù ngàn dặm xa xôi cũng không thể sánh với sự rộng lớn của biển cả, dù nghìn trượng sâu cũng không đo được độ sâu của lòng biển”, Hân Tố Tố biết ngay Trương Thuý Sơn đang nhớ tới sư phụ của mình là Trương Tam Phong. Cô dẫn đoạn thầy Nhan Hồi ca ngợi Khổng Tử trong cuốn Trang Tử ra: “Tiên sinh bước ta cũng bước, tiên sinh đi ta cũng đi, tiên sinh chạy ta cũng chạy. Nhưng tiên sinh giở hết lực ra chạy như bay, ta mới hay còn kém tiên sinh rất nhiều”. Chính câu nói đó đã hình tượng hoá được tài đức và võ công của Trương Tam Phong trong lòng Trương Thuý Sơn nên Trương Thuý Sơn càng yêu thương, mến mộ Hân Tố Tố hơn.
Khi họ sống thành lứa đôi, Hân Tố Tố đã tỏ ra là một hiền phụ biết vâng lời dạy bảo của chồng, bỏ hết những ác nghiệp ngày trước. Lòng hy sinh của cô thật vô hạn, chưa có một nhân vật nào của Kim Dung sánh kịp. Cho nên, khi sáu đại môn phái lên núi Võ Đang ép buộc vợ chồng cô phải nói ra chỗ ẩn nấp của Tạ Tốn để bọn họ đi tìm đao Đồ Long; Trương Thuý Sơn đã tự tử và Hân Tố Tố cũng chết theo chồng. Đoạn văn mô tả cái chết của vợ chồng Trương Thuý Sơn – Hân Tố Tố là một khúc ca bi tráng, thể hiện một cách tuyệt vời với tài năng hư cấu của tiểu thuyết Kim Dung. Năm ấy, Hân Tố Tố mới ngoài 30; con trai của cô -Trương Vô Kỵ – mới lên 10.
Hân Tố Tố xứng đáng được chọn làm đệ tam đại mỹ nhân. Cái chết của cô mở ra một thế giới mới: thế giới của tình yêu Trương Vô Kỵ – Triệu Mẫn

4. Nhậm Doanh Doanh
Ngôi vị đệ tứ đại mỹ nhân tôi xin dành cho Nhậm Doanh Doanh, cô gái 17 tuổi đẹp như ngọc, con gái của giáo chủ Triêu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành, một thứ tà ma ngoại đạo trong Tiếu ngạo giang hồ.
nhamdoanhdoanh
Có lẽ Kim Dung đã đem hết tâm lực của mình ra để xây dựng nhân vật Nhậm Doanh Doanh: một nhân vật nữ tươi đẹp trong sang, giỏi âm nhạc, võ công cao cường, mưu trí sâu sắc, cai trị bọn bàng môn tả đạo bằng trái tim thép nhưng rất mẫn cảm với tình yêu và sống với tình yêu bằng trái tim dịu dàng vô kể. Cô gặp Lệnh Hồ Xung trong khi chàng trai lãng mạn này mất hết công lực, bị sư phụ và các đông môn đạp xuống hố sâu của của sự nghi ngờ khinh bỉ. Trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, cô tiếp Lệnh Hồ Xung qua tấm rèm không cho chàng thấy mặt; nhận tặng vật của chàng trai là bộ nhạc phổ Tiếu ngạo giang hồ và lắng nghe chàng trai kể lại nỗi đau tình khi bị Nhạc Linh San phụ bạc đi theo “gã mặt trắng” Lâm Bình Chi. Vì không thấy mặt cô nên Lệnh Hồ Xung cứ gọi cô là “bà bà”.
Doanh Doanh có một nhận định khá lạ lùng về tình yêu: hễ ai không chung tình với quá khứ thì sẽ không chung tình với hiện tại và tương lai. Cho nên, cô gái 17 tuổi này đã rời bỏ ngõ Lục Trúc, ra đi để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, đàn khúc Thanh tâm phổ thiện trú để xoa dịu những vết thương về thể xác và tâm hồn của chàng trai mà cô mới gặp đã cảm thấy yêu mến. Giữa vùng hoang sơn dã lĩnh, cô bắt ếch nướng cho Lệnh Hồ Xung ăn. Cho đến khi Lệnh Hồ Xung kiệt sức, cô đành cõng chàng lên chùa Thiếu Lâm nhờ Phương Chứng đại sư chữa trị và tự đem thân mình cho phái Thiếu Lâm cầm tù để đổi lấy sinh mạng của Lệnh Hồ Xung. Khi lành bệnh, hiếu ra được lòng thương yêu và đức hy sinh vô hạn ấy của Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung đã thống lĩnh hết bọn hào sĩ bàng môn tả đạo, trống rong cờ mở, lên chùa Thiếu Lâm đòi thả Doang Doanh ra. Chính hành động vô pháp vô thiên ấy của Lệnh Hồ Xung khiến Doanh Doanh cảm thấy được an ủi rất nhiều và thấy được sự hy sinh của mình là không uổng phí. Họ yêu nhau nhưng trong lòng Nhậm Doanh Doanh biết chàng trai chưa phai mờ hình ảnh của Nhạc Linh San. Cô không hề ghen tức, ngược lại đối xử với Nhạc Linh San như người bạn tốt. Chính cô đã cứu Nhạc Linh San, chính cô đã động viên Lệnh Hồ Xung nghe tâm trạng sư muội trước khi chết. Trong con người Doanh Doanh nhỏ bé có trái tim nhân hậu vĩ đại của một phụ nữ công bằng.
Nhậm Doanh Doanh thật thông minh, bén nhạy. Nghe Lệnh Hồ Xung kể chuyện, cô biết ngay là chàng không phải là thủ phạm giết bạn đồng môn của mình, biết ngay là chàng bị sư phụ lừa dối. Chính cô đã khám phá ra chiêu số võ công của Nhạc Bất Quần giống như chiêu số võ công của gã lại cái Đông Phương Bất Bại; từ đó phán đoán ra Tịch Tà kiếm phổ còn có nghĩa là Quỳ hoa bảo điển, và biết Nhạc Bất Quần đã “Dẫn đao tự cung” (tự thiến bộ phận sinh dục). Cũng chính cô chứ không ai khác đã nhắc bảo cho Lệnh Hồ Xung biết rằng Nhạc Bật Quần là một gã nguỵ quân tử. Và cũng chỉ có cô mới kiềm chế nổi Nhạc Bất Quần, bảo vệ mạng sống cho mình và tình lang: bóp mũi Nhạc Bất Quần cho lão uống Tam thi não thần đan, một loại độc dược mà ngoài cô ra, không ai ở trên đời có thuốc giải được.
Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho Doanh Doanh nhường ngôi giáo chủ lại cho Hướng Vân Thiên, làm đám cưới với Lệnh Hồ Xung và hai vợ chồng song tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ. Họ đã hoàn thành tâm nguyện mà Lưu Chính Phong và Khúc Dương ngày xưa chưa làm được: hắc đạo và bạch đạo vẫn có thể sống với nhau trong một không khí hoà bình hạnh phúc thật sự, xoá đi biên giới của hận thù và nghi kị. Tiếu ngạo giang hồ chính là khát vọng của tác giả Kim Dung đối với đất nước và đồng bào Trung Hoa của ông. Và Doanh Doanh chình là biểu tượng của cái đẹp Trung Hoa, một cái đẹp đi vào phạm trù tinh thần chứ không còn ở phạm trù vật chất nữa.
Doanh Doanh hoàn mỹ quá khiến tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu khi xây dựng nhân vật này, Kim Dung có đặt cái mà tôi gọi là “chủ nghĩa Đại Hán” của ông vào chăng? Tôi định chọn Nhậm Doanh Doanh ở ngôi vị số một, trên cả Triệu Mẫn, nhưng vì sự nghi ngờ đó đã khiến tôi xếp cô vào vị trí số bốn. Đã bảo tôi là một người đầy cảm tính, không thể có sự khách quan, trung thực và khoa học của các vị giám khảo chấm thi hoa hậu nghiêm khắc và đầy kinh nghiệm ngày nay cơ mà. Cho nên tôi cứ liều mạng đưa cô gái Mông Cổ lên ngôi vị số một và đặt cô Doanh Doanh Hán tộc xuống vị trí số bốn. Mà số bốn thì cũng cực kì quan trọng rồi.

5. A Châu
Có lẽ số phận đau thương nhất, bi kịch nhất trong hàng trăm nhân vật nữ của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung chỉ dành cho một nhân vật A Châu. Tên thật của cô là Đoàn A Châu, con của Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý và bà Nguyễn Tinh Trúc, người nước Tống. Mối tình ngoại hôn giữa hai người đã sinh ra hai cô gái xinh đẹp: Đoàn A Châu và Đoàn A Tử.
Cũng có lẽ trong thế giới tiểu thuyết võ hiệp, ta chưa bắt gặp nhân vật đàn ông, một người cha nào vô trách nhiệm như Đoàn Chính Thuần. Ngay đến hai đứa con gái của mình, ông cũng chẳng biết chúng được đặt tên gì. Nguyễn Tinh Trúc thấy đứa lớn thích mặc áo dỏ, đặt tên là A Châu; thấy con gái nhỏ thích mặc áo tía, đặt tên là A Tử. Cùng sinh ra một gốc nhưng A Châu và A Tử là hai tính cách khác biệt: A Châu dịu dàng, nhân hậu, chung tình bao nhiêu thì A Tử lại tàn bạo, ngang ngược, thủ đoạn bấy nhiêu. Do phải tránh né sự truy bức, Nguyễn Tinh Trúc phải đưa hai đứa con gái ra Nhạn Môn Quan tị nạn. Cho nên ba chữ “Nhạn Môn Quan” trở thành nỗi đau, sự lỗi lầm lớn trong tâm hồn Đoàn Chính Thuần, khiến Đoàn Chính Thuần phải chịu sự oan khuất lớn sau này dẫn đến cái chết của A Châu.
A Châu gặp Kiều Phong tức Tiêu Phong, người nước Khất Đan, nguyên bang chúa Cái bang Trung Hoa, trong một hoàn cảnh khá đặc biệt trên chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong lên chùa Thiếu Lâm thăm lại người thầy yêu của mình là Huyền Khổ đại sư, để xác nhận lại quá khứ của mình; A Châu lên chùa Thiếu Lâm là để đánh cắp bộ Dịch Cân kinh về tặng cho chủ nhân của cô là Cô Tô Mộ Dung Phục. A Châu có thuật cải trang thần tình, đã cải trang thành nhà sư Trí Thanh, lấy được bộ Dịch Cân kinh nhưng lại bị trúng một chưởng của các nhà sư Thiếu Lâm. Một chưởng đó có thể làm tan bia vỡ đá huống chi một thân thể mảnh khảnh của một cô gái mới 18 tuổi cỡ A Châu. Kiều Phong đã nhanh trí ném ra một tấm gương đồng làm tấm đệm cản bớt kình lực của phát chưởng nhưng A Chấu vẫn bị thương nặng. Ông cứu A Châu, rời khỏi chùa Thiếu Lâm. Năm ấy ông 30 và A Châu chỉ mới 18.
Không gặp nhau thì thôi, gặp nhau là đã có duyên phận; Kiều Phong nhất quyết phải cứu A Châu. Nhưng sức ông có hạn, lại không hiểu y lí, ông đành đưa A Châu về Tụ Hiền trang, nơi mà quần hùng Trung Nguyên đang hội họp bàn kế hoạch giết ông, một tên Khất Đan mọi rợ, để cầu cứu Thần y Tiết Mộ Hoa chữa thương cho A Châu. Khi hiểu được tấm lòng Kiều Phong không nại sinh tử, đưa mình vào đầm rồng hang hổ để cầu mong cái sống cho cô, A Châu mới nhận ra được rẳng trên đời này chưa có người đàn ông nào nặng tình nặng nghĩa như vậy. Sau khi gửi gắm A Châu, Kiều Phong cùng quần hùng Trung Nguyên ác đấu một trận. Ông bị thương và may mắn được một người bịt mặt cứu ra khỏi Tụ Hiền Trang, đưa về một sơn cốc…
A Châu được Tiết thần y chữa lành vết thương. Cô bé mảnh khảnh vượt mấy ngàn dặm tìm về Nhạn Môn Quan giữa mùa tuyết phủ, chờ gặp Kiều Phong. Cô biết thế nào Kiều Phong cũng trở lại, đến bên phiến đá xưa nơi cha ông Tiêu Viễn Sơn trước khi chết đã dùng chỉ công ghi lại văn tự trên đó. Quả nhiên, Kiều Phong trở lại Nhạn Môn Quan đúng như trong một kịch bản đầy khát vọng mà mọi độc giả của Thiên Long bát bộ đều mong ước được nhìn thấy. A Châu nhào vào lòng Kiều Phong và khóc rưng rức vì hạnh phúc, vì hổ thẹn, vì tủi thân. Nhưng cho đến lúc ấy, Kiều Phong vẫn chưa biết được đó là sự biểu lộ tình yêu đầu đời thầm kín. Trọn cuộc đời ông ngoài chuyện chiến đấu, ông chỉ biết có bát rượu, không hề ngĩ đến nữ sắc. Ông lại mang mặc cảm mình là người Khất Đan – dân tộc hạ đẳng, trong khi Đoàn A Châu lại là người Trung Hoa – dân tộc thượng đẳng, nên ông không hề để ý đến tấm chân tình của A Châu. Tuy nhiên, giữa trời đất Nhạn Môn Quan đầy tuyết phủ, được làm bạn với một cô gái xinh đẹp dịu dàng và nhất là được nghe cô thỏ thẻ: “Sẽ cùng đại gia qua bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ” thì ông mới hiểu rằng A Châu thương mình. Họ yêu nhau nhưng miệng chưa bao giờ nói ra chữ “yêu”, vượt qua mấy ngàn dặm trở lại thành Biện Lương, trai vẫn giữ được lễ, gái vẫn giữ được băng thanh ngọc khiết.
Do một lời vu cáo để trả thù riêng của Ôn Khang, Kiều Phong và Đoàn A Châu nhận lầm rằng Đoàn Chính Thuần chính là người chỉ huy đánh giết Tiêu Viễn Sơn – cha của Kiều Phong ngày trước tại Nhạn Môn Quan. Họ trở lại rừng Phương Trúc giữa lòng Thái Hồ, Giang Nam để Kiều Phong ước hẹn cuộc chiến đấu rửa thù với Đoàn Chính Thuần. Cả Kiều Phong và A Châu đều nguyện rằng sau cuộc trả thù này, họ sẽ sang bên kia Nhạn Môn Quan sống với nhau cuộc đời bình yên trên thảo nguyên Khất Đan, không chen chân vào cõi giang hồ nữa. Cho đến khi nhìn thấy A Tử có một miếng ngọc bội giống như miếng ngọc bội của chính cô, cô mới đau xót nhận ra rằng Đoàn Chính Thuần là cha; Nguyễn Tinh Trúc là mẹ và A Tử là em ruột cô.
Nhưng khát vọng trả thù của người tình Kiều Phong thì nặng như núi Thái Sơn, cô biết xử lí làm sao giữa hiếu và tình. Kim Dung đẩy nhân vật đáng thương của ông vào bi kịch: cho A Châu hoá trang thành Đoàn Chính Thuần, đến bên cầu giữa đêm mưa gió, chấp nhận cuộc chiến đấu rửa hờn của Kiều Phong. Kiều Phong chỉ đánh một chưởng và ông khám phá ngay ra điều khác lạ. Ông ôm địch thủ lên, gỡ bỏ hết những vật hoá trang và dưới ánh chớp của sét, ông nhận ra đó là A Châu, tình yêu của ông, cứu cánh hạnh phúc của ông. Cô thỏ thẻ tóm tắt lại cho ông hiểu mọi sự. Lần đầu tiên trong, Kim Dung mới để cho Kiều Phong khóc. Nước mắt ông hoà lẫn nước mưa, đẫm ướt người A Châu. Ông như điên như khùng, bồng cô gái thân yêu chạy suốt rừng Phương Trúc, gọi tên từng người, gọi Đoàn Chính Thuần ra giết mình để trả thù cho con gái. Nhưng chẳng ai đáp lại lời ông.
Chương Kim Dung viết về chuyện đánh lầm vào A Châu giữa đêm mưa tầm tã và sấm chớp liên hồi có cái mức độ đau thương của lớp cuối cùng khi nhân vật Phượng và Xung vướng phải dây điện, cùng chết bên nhau trong hồi cuối vở kịch Lôi vũ của Tào Ngu. Tác giả Kim Dung đẩy Kiều Phong đến độ chót của bi kịch, tước mất của ông nguồn sống, tình yêu và khát vọng về một đời du mục tầm thường trên thảo nguyên Khất Đan.
A Châu không đẹp rực rỡ, võ công cao cường, mưu trí chẳng bằng ai, lại chỉ là một con hầu trong nhà Mộ Dung Phục. Nhưng cái đạo hiếu của cô, mối tình trong sáng của cô dành cho Kiều Phong, tâm hồn ôn nhu phưong đông của cô thì không người phụ nữ nào sánh kịp. Để làm nổi bật A Châu, Kim Dung xây dựng nhân vật A Tử điêu ngoa, xảo quyệt, tàn bạo; chẳng khác nào trong kĩ thuất chụp ảnh ta chú trọng đến chất contrast (tương phản). Chính vì thế mà A Châu rực rỡ; Kiều Phong một đời chỉ có A Châu, chỉ yêu A Châu và không thể yêu bất kì cô gái thứ hai nào trên thế gian, không muốn ôm bất cứ một người phụ nữ nào trên thế giới.
Xưa nay, bi kịch tình – hiếu vẫn là một chủ đề thường gặp trong tiểu thuyết Việt Nam và Trung Hoa. Thuý Kiều yêu Kim Trọng nhưng phải bán mình 300 lạng để chuộc tội cho cha, để rồi phải sống 15 năm trong lầu xanh. Nhưng Thuý Kiều còn có Thuý Vân để thay thế đền đáp cho Kim Trọng, còn A Châu thì chẳng có ai. A Tử không có cái nhu mì của Thuý Vân và Kiều Phong cũng chẳng có cái tình cảm văn nhân ấm ớ của Kim Trọng. Bi kịch tình hiếu A Châu – Kiều Phong trong Thiên Long bát bộ là vô điều kiện và tuyệt đối. A Châu trở thành nhân vật mẫu mực,tượng trưng cho lòng hy sinh cao cả của người phụ nữ phương Đông. Chính vì cái vẻ đẹp nhân bản đó trong tâm hồn cô gái 18 tuổi này mà tôi mạnh dạn bầu cô làm đệ ngũ đại mỹ nhân.


6. Tiểu Long Nữ
Không một ai, kể cả tác giả Kim Dung, hiểu rõ được họ tên cô gái này. Tác giả chỉ cho ta được biết rằng, ngay từ thủa nhỏ, Tiểu Long Nữ đã được nuôi nấng, học võ công và trưởng thành trong ngôi cổ mộ của phái Cổ Mộ sau núi Chung Nam, kế tục sự nghiệp của Lâm Triều Anh để trở thành một trong những nhân vật nữ chính của Thần điêu hiệp lữ.
Những người sống trong ngôi cổ mộ thường vẫn mang theo một huyền thoại, một vẻ thần bí ly kỳ: họ sống cũng như chết, rất xa cách với thế giới bên ngoài. Kim Dung tự giới thiệu Tiểu Long Nữ hay Long cô nương của mình cũng tương tự như thế:
Chung Nam sơn hậu
Hữu hoạt tử nhân
(Sau núi Chung Nam
Có người sống chết)
Tiểu Long Nữ là một cô gái trong sáng từ thân xác đến tâm hồn; đối với cô hoàn toàn không có biên giới giữa sự việc nên làm và không nên làm, nên tránh và không nên tránh. Đắc thủ toàn bộ võ công của phái Cổ Mộ được ghi lại trong Ngọc Nữ tâm kinh, Tiểu Long Nữ trưởng thành hồn nhiên như một viên ngọc không tỳ vết. Cô trở thành người hàng xóm vừa dịu dàng vừa khó chịu của phái Toàn Chân (cũng ở núi Chung Nam). Cô thương yêu một người đồ đệ kém mình hai tuổi và trọn đời chỉ có mối tình ấy, không có một mối tình, một hình bóng nào khác.
Đối với xã hội phong kiến Trung Hoa, mối tình ấy là cả một sự thách thức, thậm chí là sự phỉ báng các nguyên tắc của đạo đức luân lý. Mọi người đều cho phép mình khinh bỉ, lên án cặp thầy trò Tiểu Long Nữ – Dương Qua, kể cả Quách Tĩnh và Hoàng Dung là hai người chịu ơn cặp thầy trò này. Người ta lấy cái đạo đức luân lý cứng nhắc ngàn năm để đo một mối tính trong sáng của đôi trai gái trong sáng, cho rắng mối tình đó đã xâm phạm nền đạo đức Trung Hoa, tư dy đạo đức Trung Hoa. Người ta đã làm mọi chuyện, kể cả vu cáo và bôi nhọ, cho lứa đôi phải xa nhau, phải rời bỏ nhau.
Kim Dung, trong Thần điêu hiệp lữ, đã nhấn thêm một bước nữa: ông cho cô gái trong trắng như ngọc của mình thất trinh. Tiểu Long Nữ luyện Ngọc nữ tâm kinh và gã đồ đệ phái Toàn Chân tình cờ đi ngang qua đó, đã bế cô đưa vào bụi rậm… Chỉ tội nghiệp cho Tiểu Long Nữ: cô cứ nghĩ người đó là Dương Qua, trong sự bẽ bàng đau đớn còn có niềm hạnh phúc được dâng hiến. Cũng tội nghiệp cho Dương Qua: anh phải chịu một cái án oan, một vụ án tình dục mà anh không phải là thủ phạm. Cho đến khi Tiểu Long Nữ biết được rằng kẻ phá hoại đời mình là Doãn Chí Bình, rằng Dương Qua đồ đệ của mình vẫn trước sau là một người trong sáng, thì cô thật sự tuyệt vọng. Cô lẳng lặng từ bỏ mối tính lớn trong đời, ra đi … Dương Qua cũng từ bỏ tất cả ra đi để tìm sư phụ. Cuộc rượt đuổi đi tìm hạnh phúc, tình yêu đó thật não nùng. Luân lý, đạo đức Trung Hoa đã không cấm cản được trái tim họ, tình yêu của họ. Chỉ có niềm đau khổ của tuổi đầu đời đã chia sẻ họ.
Tiểu Long Nữ chuyên mặc một màu áo trắng, ăn nói đơn giản, cốt cách như thần tiên. Cô gái ấy say mê học trò, vi phạm đạo đức, lại bị cưỡng hiếp, không còn là người trinh bạch nữa. Thế nhưng dưới mắt bạn đọc Thần điêu hiệp lữ, Tiểu Long Nữ vẫn là một con rồng nhỏ, trong sáng như gương, dịu dàng như ngọc. Tôi bầu cô làm đại mỹ nhân thứ sáu và vẫn mạnh dạn coi cô là con người trinh bạch. Đúng ra cô trinh bạch rất nhiều so với hàng triệu con người trinh bạch (hoặc tự coi mình là trinh bạch) hiện nay.


7. Song Nhi
Song Nhi chỉ là con hầu của người vợ thứ ba của Trang Kiến Long, một nhà nho Trung Hoa đã có công tụ họp người trí thức triều Khang Hy soạn bộ Minh thư tập lược, bị Ngao Bái nhà Thanh giết. Song Nhi người gốc Hàng Châu, ngay từ thơ ấu, đã chịu chung cái số phận đau thương của bà chủ mình: bị đày lên khu vực ngoại thành Bắc Kinh. Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung để cho Vi Tiểu Bảo 16 tuổi, gặp Song Nhi và nhận cô làm người hầu lúc cô 14 tuổi. Quan hệ giữa hai người vừa là chủ tớ, vừa là bạn bè. Song Nhi mở miệng ra gọi luôn Vi Tiểu Bảo là “tướng công”; Vi Tiểu Bảo mở miệng ra gọi Song Nhi luôn luôn là “Hảo Song Nhi”. Cô gái nhỏ này võ công cao cường, nhân phẩm đoan chính, có học vấn và có tấm lòng trung thành vô hạn đối với chủ, nên xin đề nghị xép cô vào hàng đại mỹ nhân thứ bảy dù nhan sắc hãy còn thua xa Phương Di, người mà Vi Tiểu Bảo nhận làm vợ lớn.
Gần như Song Nhi là cái bóng của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo đi đên đâu, cô đi theo anh chàng này đến đó, phục vụ cơm nước, áo quần, bàn chuyện tính mưu định kế. Cô đã đánh cho bọn Lạt Ma Tây Tạng chổng càng chổng gọng để cứu Vi Tiểu Bảo, cùng Vi Tiểu Bảo tham gia cứu mạng Thuận Trị hoàng đế, ra trận đánh bọn Hoả thương thủ và các tay hảo thủ khác của quân Sa hoàng Nga, hoá trang khi làm sư, khi làm ngự lâm quân Thanh triều để bảo vệVi Tiểu Bảo. Gần như Song Nhi không biết sợ một ai, kể cả danh thủ kiếm pháp Phùng Tích Phạm của đảo Đài Loan. Hắn có ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết, ấy vậy mà khi hắn muốn giết Vi Tiểu Bảo; Song Nhi đứng ra liều mình cứu chủ; mũi kiếm của hắn không giết nổi Song Nhi, chỉ làm cô bị thương, chảy máu chút đỉnh. Từ chiến công của Song Nhi, bọn giang hồ gọi giễu Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu đổ ra rồi).
Song Nhi đi theo Vi Tiểu Bảo ăn tuyết nằm sương nhưng không bán mình cho họ Vi. Cô bỏ công ra cả tháng, thức đêm để khâu lại những mảnh nhỏ lấy được trong tám bộ Tứ Thập nhị chương kinh thành một bản đồ lớn mô tả kho báu ở Lộc Đỉnh Sơn mà không hé miệng than thở một lời. Vi Tiểu Bảo hay chớt nhả, luôn miệng nói với cô câu: “Đại công cáo thành, phải hôn một cái” nhưng thực sự hắn chưa bao giờ ôm hôn được cô, vì cô cũng chẳng bao giờ dễ dãi để hắn ôm hôn. Ngay đến khi cô ngủ gục vì mệt mỏi, Vi Tiểu Bảo bồng cô vào giường cũng chẳng dám hé môi hôn cô một cái, vì hắn biết làm như vậy là tiết mạn phẩm giá con hầu của mình. Trong khi đó, với Kiến Ninh công chúa, em vua Khang Hy; với A Kha, con gái của Trần Viên Viên; với Phương Di, tiểu thư của một dòng tộc danh giá ở Vân Nam; với công chúa Sophia của nước Nga, Vi Tiểu Bảo muốn hôn là hôn, muốn sờ ngực là sờ ngực, thậm chí muốn chăn gối là chăn gối.
Điều gì đã khiến nhà văn Kim Dung tôn trọng nhân phẩm của một con hầu, nâng cô lên trên cả hai vị công chúa, hai vị tiểu thư thiên kim? Đó chính là cái nhìn của ông về bản chất của cái gọi là tầng lớp quý tộc trong chế độ quân chủ Trung Hoa. Những huyền thoại cao quí về tầng lớp đó đã băng hoại, còn lại những sự thật phũ phàng: Kiến Ninh công chúa chỉ mong được ngủ với Vi Tiểu Bảo; Phương Di danh giá lại có những hành động lừa dối; A Kha cao quí ngu muội đi theo hào quang của gã bạch vệ Trịnh Khắc Sảng, trở thành cô gái bất trinh; thậm chí hiền lành ngây thơ như Mộc Kiếm Bình, tiểu thư của Mộc vương phủ Vân Nam, cũng bị tác giả cho vẽ lên má một con rùa. Qua nhân vật Song Nhi, tôi thấy tác giả Kim Dung có một tình cảm sâu nặng đối với những người bình dân Trung Quốc, đặc biệt là đối với những phụ nữ suốt đời chỉ biết làm con hầu, kẻ ở. Vi Tiểu Bảo có thể mở miệng chửi tất cả những phụ nữ cao quí là con điếm, con đượi non, mụ điếm nhưng không bao giờ trong lòng hắn dám gợi lên một tư tưởng bất kính với con hầu Song Nhi.
Song Nhi trở thành một trong bảy người vợ của Vi Tiểu Bảo nhưng cô vẫn giữ được phẩm giá chân chính của một người phụ nữ: không hề cạnh tranh, so bì, tỵ nạnh. Các đứa con khác của Tiểu Bảo do Tô Thuyên, A Kha, Kiến Ninh công chúa sinh ra đều được cô nuôi nấng, chăm sóc dịu dàng như con của chính mình. Thậm chí, cô cảm thấy hạnh phúc khi có một đức trẻ được đặt tên là Song Song bởi vì trong cái tên này, có chữ Song trong tên của cô.Chính từ cái đẹp nội tâm trong cô gái bé nhỏ này, tôi mạnh dạn bầu cô làm đệ thất đại mỹ nhân mà tôi mạo muội bình chọn.

8. Vương Ngữ Yên
Là một cô gái đẹp tuyệt trần, nhân vật mà Kim Dung thường gọi là “thần tiên nương tử”, hình ảnh hoá thân của pho tượng ngọc dưới đáy Cung Kiếm hồ mà Đoàn Dự đã từng gặp. Vương Ngữ Yên là con gái ngoại hôn của Đoàn Chính Thuần, người nước Đại Lý, với Vương phu nhân, người Tiên Ty.
Vương Ngữ Yên là cô gái thông minh, đọc thuộc lầu những quyển kinh võ học trong thiên hạ, đến nỗi ai đánh một chiêu một thức cô đều gọi đúng tên chiêu thức đó, đồng thời biết luôn cả cách phá giải. Cô trở thành quyển từ điển sống võ học, và do cô không hề biết võ công, nên nhiều thế lực thèm khát bắt cóc được cô để làm áp lực với họ Mộ Dung, và để cô dạy cho mình những đòn thế võ công thất truyền.
Một đời Vương Ngữ Yên chỉ biết say mê Mộ Dung Phục, người anh em cô cậu của mình (người Trung Hoa cho phép anh chị em con cô con cậu, anh chị em bạn dì lấy nhau). Thế nhưng Mộ Dung Phục là một gã huênh hoang, khoác lác, hắn chỉ say sưa giấc mộng phục hồi nước Đại Yên, sẵn sàng đạp đổ tất cả tình yêu, tình bạn bè, tôn kẻ thù làm cha, miễn là có thể lợi dụng được những hoàn cảnh để phục hưng Đại Yên. Ngược lại với Mộ Dung Phục, Đoàn Dự nước Đại Lý sẵn sàng đánh đổi tất cả các thứ trên đời, kể cả ngôi vị hoàng đế Đại Lý, để được kề cận bên Vương Ngữ Yên. Tình yêu xảy ra giữa ba nhân vật này là một quá trình rượt đuổi buồn cười.
Khi Mộ Dung Phục sang nước Tây Hạ để sự lễ tuyển phu của Ngân Xuyên công chúa nước này, Vương Ngữ Yên chỉ sợ võ công của biểu ca mình cao cường, có thể làm rể Tây Hạ và phụ rẫy mối tình của mình. Cô đã nhờ Đoàn Dự ra tay viện trợ: dùng Lục mạch thần kiếm danh tiếng của họ Đoàn đánh thắng Mộ Dung Phục, phá vỡ âm mưu làm rể Tây Hạ của Mộ Dung Phục. Nhưng rồi Mộ Dung Phục đánh cho Đoàn Dự lọt xuống đáy giếng và nói rõ tham vọng chủa mình cho Vương Ngữ Yên nghe rằng hắn chưa bao giờ thương yêu Vương Ngữ Yên cả. Cô gái tuyệt vọng, gieo mình xuống đáy giếng sâu. Và lạ thay, ở trên mặt đất thơm tho, dưới ánh sáng chói chang của mặt trời bao nhiêu năm mà Vương Ngữ Yên không nhìn ra tấm chân tình của chàng Đoàn Dự, thì chỉ trong chốc lát dưới đáy giếng sau hôi hám tối tăm, Vương Ngữ Yên đã chấp nhận mối tình ấy. Và họ nguyện sống đời lứa đôi bên nhau.
Nhưng ta đã biết, Đoàn Chính Thuần là cha của Đoàn Dự. Lẽ nào ông anh Đoàn Dự có thể cưới hỏi cô em cùng cha khác mẹ là Vương Ngữ Yên? Cái mâu thuẫn ấy đã được đẩy lên đỉnh điểm của của Thiên Long bát bộ khi độc giả kinh hoàng nhận ra mối quan hệ huyết thống giữa hai nhân vật trai gái trung tâm này. Ta có thể tưởng tượng ra cái thảm kịch để giúp họ hoá giải mối tình loạn luân, cũng như Romeo và Juliette trong bi kịch của Shakespeare tìm cái chểt để họ chuộc lỗi với đời và để cho đôi lứa có thể chia lìa nhau vĩnh viễn. Nhưng Kim Dung đã có một lối giải quyết khá thần kì, xứng đáng là bậc thầy trong nghệ thuật hư cấu tiểu thuyết: ông lật ngược lại dĩ vãng của Đoàn Chính Thuần và Đao Bạch Phụng. Giận Đoàn Chính Thuần say mê nhan sắc của người phụ nữ khác, Đao Bạch Phụng đã làm một hành động cực kỳ thương luân bại lý: đem tấm thân cao quý của mình hiến dâng cho một gã ăn mày hôi hám, trôi sông dạt chợ. Gã ăn mày đó chính là Đoàn Diên Khánh, người trong hoàng tộc nước Đại Lý, kẻ xứng đáng lên ngôi vua Đại Lý nhât nhưng không được lên ngôi. Đoàn Dự chính là con của Đao Bạch Phụng và Đoàn Diên Khánh; Đoàn Chính Thuần chỉ là ông cha hờ. Mà trong qui định hôn nhân của nước Đại Lý, anh em cùng tông tộc có thể cưới hỏi lẫn nhau (chính nhà Trần ở Việt Nam cũng áp dụng qui định này để ngai vàng khó lọt vào tay kẻ khác). Cho nên Đoàn Dự vẫn có quyền cưới hỏi và ăn ở với Vương Ngữ Yên, và chẳng riêng gì Vương Ngữ Yên, cả đến Mộc Uyển Thanh (con gái Tần Hồng Miên), Chung Linh (con gái Cam Ngọc Bảo) đều là con ngoại hôn của Đoàn Chính Thuần; Đoàn Dự say mê ai có quyền cưới người ấy. Câu chuyện của Đoàn Dự có đến năm người biết: mẹ Đoàn Dự, Đoàn Dự, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Minh (vua nước Đại Lý) và… chúng ta, những người đọc Kim Dung. Đoàn Dự lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý; Vương Ngữ Yên trở thành chánh cung hoàng hậu. Đáng lẽ với tài sắc ấy, tôi định bầu cô vào ngôi vị đệ nhất, đệ nhị đại mỹ nhân, nhưng vì cô quá say mê “thằng mặt trắng” Mộ Dung Phục cho nên “trong lý lịch có vấn đề”, tôi chỉ dám xếp cô vào hàng thứ tám.

9. Viên Tử Y
Viên Tử Y là cô bạn nhỏ mới 16 tuổi của tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo đao). Cô gái này có lý lịch rất hồ đồ, luôn luôn hiện diện cạnh Hồ Phỉ trong suốt con đường hai người hành hiệp cứu đời, thông minh và giàu tri thức. Ngay cái tên của cô cũng rất mơ hồ: cô xưng họ Viên, chuyên mặc áo tía nên tác giả gọi luôn tên cô là Viên Tử Y.
Thực sự, Viên Tử Y là cô gái bất hạnh. Mẹ cô là người phụ nữ trong trắng, đã bị một gã đạo đức giả trong giới giang hồ cưỡng hiếp rồi bỏ trốn. Gã giang hồ đó đã khéo léo che dấu lý lịch, trở thành con người khả kính, một biểu tượng của đạo đức võ lâm Trung Hoa. Hồ Phỉ và Viên Tử Y cung chung mục đích: muốn lột mặt nạ con người đạo đức giả ấy. Hồ Phỉ muốn giết hắn nhưng Viên Tử Y lại cứu hắn. Chẳng lẽ cô lại dễ dàng cháp nhận cho bạn mình giết cha mình mặc dầu người ấy chẳng ra gì?
Bi kịch trong đời Viên Tử Y vẫn là bi kịch tình- hiếu nhưng xét ra một góc độ cấu trúc tiểu thuyết, bi kịch này được xây dựng khác hẳn với những tình huống của Triệu Mẫn và Tiểu Siêu với chàng Trương Vô Kỵ. Cuối tác phẩm Lãnh nguyệt bảo đao, Viên Tử Y chia tay Hồ Phỉ ra đi. Tôi bầu cô làm đại mỹ nhân thứ chín nhưng chẳng biết cô đi về đâu giữa mênh mông năm tỷ con người

.
10. Bạch A Tú

Tôi dành ngôi vị đệ thập đại mỹ nhân cho cô gái mới 15 tuổi này, một cô gái chẳng lấy gì làm xinh đẹp cũng chưa biết nói một lời yêu thương nào đối với anh chàng bạn trai thân yêu Thạch Phá Thiên. Người đời có thể cho tôi là dốt nát, đắc biệt đối với các vị giám khảo giàu kinh nghiệm có thể gọi tôi là đồ đui, là không hiểu gì hết về số đo ba vòng của các hoa hậu, để nhắm mắt bầu một cô bé mông lép, ngực lép vào hàng ngũ các Top Model, tôi cũng vẫn cứ bảo lưu ý kiến của mình.
Bạch A Tú là con gái của Bạch Vạn Kiếm, cháu nội của Bạch Tự Tại, chưởng môn phái Tuyết Sơn. Năm 12 tuổi, cô bị một thằng mặt trắng là Thạch Trung Ngọc cởi hết áo quần, cột tay chân toan dở trò đồi bại nhưng rồi được tác giả Kim Dung cứu vớt, cho người đuổi đánh kẻ đồi bại chạy trốn. Ấy thế mà A Tú giàu lòng tự trọng đã gieo mình xuống vực sâu của núi Tuyết Sơn để rửa nhục cho mình. Nội một hành động đó cũng đủ chứng tỏ cô cương liệt và vượt xa những người phụ nữ khác.
Khi mọi người bắt được Thạch Phá Thiên mà cứ yên chí đấy là tên phản đồ, tên dâm tặc Thạch Trung Ngọc thì chỉ có đôi mắt thơ ngây của Bạch A Tú mới nhìn ra được: “Vị đại ca này không phải là tên dâm tặc ấy”. A Tú đã có cái nhìn thơ ngây, đạt đến tận cùng bản chất của sự vật, cái trực giác tuyệt đối đúng mà những người lớn, đến cả Mẫn Nhu – mẹ đẻ Thạch Phá Thiên – cũng không có được.
Tuy chỉ 15, 16 tuổi nhưng cô đã tự khẳng định mình là một nhân vật trí tuệ tuyệt vời, biết nhìn xa trông rộng.Thấy bà nội mình dạy cho Sử Ức Đao (tên mới đặt của Thạch Phá Thiên) học Kim Ô đao pháp, Bạch A Tú đã trầm ngâm suy nghĩ. Thử hỏi cha cô là Bạch Vạn Kiếm (đánh ra chục ngàn thế kiếm) làm sao chống chọi nổi với anh bạn Sử Ức Đao (sử dụng một trăm nghìn thế đao). Phái của nhà cô là phái Tuyết Sơn (núi tuyết) mà đánh nhau với phái Kim Ô (mặt trời) thì chỉ có tan tành vì mặt trời
Mười sáu tuổi, A Tú tiễn Thạch Phá Thiên và ông mình ra biển để nghiên cứu pho võ công Hiệp khách hành. Cô ước hẹn với chàng trai: nếu anh không trở lại, cô sẽ gieo mình xuống biển sâu. Và như trong một kịch bản hoàn chỉnh nhất của tiểu thuyết phương Đông, Thạch Phá Thiên đã trở lại, kịp thời cứu cô bạn của mình từ trên cao rơi xuống lòng biển cả. Tình yêu của họ đi về đâu tác giả không nói đến nữa. Ông để cho chúng ta tưởng tượng…Tôi tưởng tượng ra chuyện họ cưới nhau; Kim Ô cùng Tuyết Sơn vẫn tồn tại, chẳng ai phải sử ức đao và cũng chẳng ai phải bạch vạn kiếm. Chính A Tú là biểu tượng của khát vọng hoá giải hận thù, nghi kị, phân biệt. Cô xứng đáng được ngồi và hàng ghế danh dự của đệ thập đại mỹ nhân. lên toả sức nóng thì núi tuyết phải chảy tan thành nước. Hơn nữa, đao pháp của anh bạn nhỏ Thạch Phá Thiên toàn là những chiêu thức khắc tinh của kiếm pháp phái Tuyết Sơn của cha và ông cô. Chính vì nhìn ra những điều ấy mà Bạch A Tú đã xin anh bạn nhỏ ngày sau dung tha cho ông nội và cha của mình và dạy cho anh bạn nhỏ chiêu Bàng xao trắc kích: chém bên trái một đao, bên phải một đao, trên một đao, dưới một đao rồi ghìm đao đứng lại khen ngợi địch thủ một câu rồi đề nghị địch thủ bãi chiến để bảo toàn danh dự cho địch thủ. Thạch Phá Thiên làm đúng như “giáo khoa” của cô bạn gái; anh thắng tất cả mọi người nhưng những địch thủ của anh vẫn mang ơn anh về thái độ rộng lượng, tâm hồn nhân ái.

Bạn đọc có thể bất bình với tôi, có thể nghi ngờ tôi ăn hối lộ của mười nhân vật trên đây, gạt những cô gái thông minh lanh lẹn sắc nước hương trời khác như Hoàng Dung, Mục Niệm Từ (Xạ điêu anh hùng truyện); Mộc Uyển Thanh (Thiên Long bát bộ); ĐInh Đang (Hiệp khách hành); Chu Chỉ Nhược (Ỷ thiên Đồ long ký) hoặc Nhạc Linh San (Tiếu ngạo giang hồ) ra khỏi danh sách Top Ten võ hiệp Kim Dung. Tôi xin nói rõ: tôi rất ghét sự ma lanh, ghét cái cơ tâm, ghết sự thay đổi và ghét những ai thiếu niềm tin, dù họ thông minh, tài giỏi, tươi đẹp.
Trong mười đại mỹ nhân của tôi bình bầu, có một trường hợp bị cưỡng hiếp đến nỗi mất trinh, một người bị cưỡng hiếp không thành có thể khiến cho các nhà đạo đức chau mày khi nghĩ đến câu: “Trinh tiết là tiêu chuẩn đầu tiên của cái đẹp”. Tám người còn lại, ai cũng từng bị thương chút ít, thân thể có chỗ tì vết, thậm chí có người bị sẹo to, da dẻ không được mịn màng như các đại mỹ nhân ngày nay. Họ cũng chẳng phải là những người ngực cao, mông tròn, biết dùng son phấn, nước hoa để làm siêu lòng khách mày râu ham của lạ. Trong mười đại mỹ nhân, tôi chưa được nắm tay, ôm eo cô nào theo cái kiểu mà ban giám khảo ngày nay vẫn làm. Nói chung, tôi bình bầu khá mạnh dạn, khách quan, không ăn hối lộ để đưa ai lên, đẩy ai xuống. Có hai trường hợp là Di Địch: một chánh cống Mông Cổ; một lai Ba Tư. Có một trường hợp là Tiên Ty, nhưng xét ra Tiên Ty cũng thuộc giống nòi Trung Hoa nên tôi xếp vào vùng sâu, vùng xa để gọi là chiếu cố. Họ là những Top Ten sống giữa một đời bình dị, không bao giờ biết đến chuyện kinh doanh nhan sắc. Ấy những mỹ nhân đích thực trên đời như thế đó.