Khi những người yêu thơ Nguyên Sa thì không một ai không biết đến tên Ngô Thụy Miên, một nhạc sĩ phổ thơ của Nguyên Sa đạt đến đỉnh điểm tâm hồn của ý thơ. Như trong các bài viết về nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên, Linh Phương, từ vô danh nhưng qua những tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy được phổ biến từ thơ, trở thành nổi tiếng. Hoặc như “Màu tím hoa sim” của thi sĩ Hữu Loan, “Trăng Vàng Trăng ngọc” của Hàn Mặc Tử, nếu không có một Dzũng Chinh, một Trần Thiện Thanh vừa lấy ý thơ vừa lấy cả cuộc đời của nhà thơ đưa vào nhạc, có lẽ những bài thơ đó chỉ vang bóng một thời rồi chìm vào quên lãng.
Nên khi nói đến thơ Nguyên Sa, nếu không nhắc đến tên nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thật thiếu sót vô cùng. Bởi thơ Nguyên Sa quá cao sang, nên đã có thời kỳ có nhiều người lên tiếng nhận xét, chỉ thích hợp cho giới trí thức, những sinh viên học sinh, nó không thể đi vào tâm hồn của đại đa số người ái mộ thơ thuộc thành phần bình dân ít học. Nhưng từ khi có những nhạc phẩm của Ngô Thụy Miên ra đời phổ từ thơ Nguyên Sa, thì thơ Nguyên Sa mới trở nên rộng khắp, đi vào tâm hồn đại đa số công chúng nhiều hơn.
Trước khi nói về nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, chúng ta nên biết về thơ và cuộc đời của nhà thơ Nguyên Sa.
Một chút tiểu sử về Nguyên Sa
Nhà thơ Nguyên Sa sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội, và theo gia phả thì tổ tiên của nhà thơ người có gốc Thuận Hóa (Huế), ông cố là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp tá Đại học sĩ trong triều đình thời vua Tự Đức, đến đời ông nội mới ra Hà Nội sinh sống.
Tên thật của nhà thơ Nguyên Sa là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc, thuộc trường phái thơ lãng mạn với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng Sáu trời mưa", v.v.
Vào những năm kháng chiến, năm 1949 gia đình cho Nguyên Sa qua Pháp du học. Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Vì thế đã có nhiều bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa, được ông sáng tác trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, cả hai ông bà về nước.
Ở Sài Gòn, nhà thơ Nguyên Sa dạy ban C, môn triết học tại trường công lập Chu Văn An (cùng với Vũ Hoàng Chương dạy môn văn học), ông còn dạy triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ngoài ra hai vợ chồng nhà thơ Nguyên Sa cũng mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi, đồng thời cộng tác với nhiều trường trung học tư thục khác như Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền. Ngoài việc dạy học, nhà thơ Nguyên Sa còn chủ trương tạp chí Hiện Đại, một tạp chí sáng tác văn học, cùng thời với nhóm Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.
Năm 1975, gia đình nhà thơ Nguyên Sa di tản sang Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình mới qua bang California, Mỹ, sinh sống. Ở vùng đất mới, ông chủ trương tạp chí Đời, băng nhạc Đời và nhà xuất bản Đời. Nhà thơ Nguyên Sa ở California từ đó cho tới ngày ông qua đời, mất vào ngày 18/4/1998.
Một chút tiểu sử về Nguyên Sa
Nhà thơ Nguyên Sa sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội, và theo gia phả thì tổ tiên của nhà thơ người có gốc Thuận Hóa (Huế), ông cố là Thượng thư Trần Trạm, giữ chức Hiệp tá Đại học sĩ trong triều đình thời vua Tự Đức, đến đời ông nội mới ra Hà Nội sinh sống.
Tên thật của nhà thơ Nguyên Sa là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc, thuộc trường phái thơ lãng mạn với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng Sáu trời mưa", v.v.
Vào những năm kháng chiến, năm 1949 gia đình cho Nguyên Sa qua Pháp du học. Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Vì thế đã có nhiều bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa, được ông sáng tác trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, cả hai ông bà về nước.
Ở Sài Gòn, nhà thơ Nguyên Sa dạy ban C, môn triết học tại trường công lập Chu Văn An (cùng với Vũ Hoàng Chương dạy môn văn học), ông còn dạy triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ngoài ra hai vợ chồng nhà thơ Nguyên Sa cũng mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi, đồng thời cộng tác với nhiều trường trung học tư thục khác như Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền. Ngoài việc dạy học, nhà thơ Nguyên Sa còn chủ trương tạp chí Hiện Đại, một tạp chí sáng tác văn học, cùng thời với nhóm Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.
Năm 1975, gia đình nhà thơ Nguyên Sa di tản sang Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình mới qua bang California, Mỹ, sinh sống. Ở vùng đất mới, ông chủ trương tạp chí Đời, băng nhạc Đời và nhà xuất bản Đời. Nhà thơ Nguyên Sa ở California từ đó cho tới ngày ông qua đời, mất vào ngày 18/4/1998.
Trên đây là những sáng tác phẩm văn học của nhà thơ Nguyên Sa. Còn về sách viết biên khảo triết học và văn học có cuốn Descartes nhìn từ phương Đông, Một mình một ngựa, Một bông hồng cho văn nghệ. Sách giáo khoa có Luận lý học, Tâm lý học
Trong cuốn hồi ký của mình, Nguyên Sa viết :
- "Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại bản ngã khác biệt…". Vì vậy, để hiểu Nguyên Sa không có phương pháp nào đáng tin cậy bằng sự nghiêm túc đọc lại thơ Nguyên Sa…”.
Khi sang Pháp du học và thi đậu bằng Tú tài ngay tại xứ sở hoa lệ này, nhà thơ Nguyên Sa ghi danh vào khoa Triết của ĐH Sorbonne.Tại đây ông gặp gỡ bà Trịnh Thị Nga, và người phụ nữ này đã biến ông thành thi sĩ từ đó. Bài thơ nổi tiếng đầu tiên của Nguyên Sa cũng là bài thơ đính hôn. Bài thơ có tên “Nga” được in ngay vào thiệp cưới năm 1955.
Năm 1956, nhà thơ Nguyên Sa đưa vợ về Sài Gòn sống bằng nghề dạy học và làm thơ. Với quan niệm bản thân "vốn dĩ chỉ là hạt cát", Trần Bích Lan mới lấy bút danh Nguyên Sa và ngay lập tức lừng lẫy trên thi đàn. Có thể do sự tình cờ hữu duyên, những bài thơ của Nguyên Sa được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc đã lan tỏa rất nhanh vào đời sống văn hóa mọi người lúc đó, và cho đến tận hôm nay, nên khi nhắc đến Nguyên Sa là người ta lại nghe vang lên trên môi những lời hát từ nhạc Ngô Thụy Miên :
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh (Áo lụa Hà Đông)
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc.
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường (Tuổi mười ba)
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm.
Chả biết tay ai làm lá sen (Paris có gì lạ không em)
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn.
Nếu em sợ thời gian dài vô tận (Tháng sáu trời mưa)
Theo một nhà văn nhận định về cuộc đời thi ca của Nguyên Sa đã nói :
- “Những bài thơ được phổ nhạc ấy cứ bồng bềnh từ thế hệ này sang thế hệ kia, khiến nhiều bài thơ khác của Nguyên Sa ít nhiều bị che khuất, kể cả những câu thơ độc đáo miêu tả chiếc áo dài dân tộc “Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần mây/Hay là em gói mây trong áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay”.
Tuy nhiên, nếu đọc thơ Nguyên Sa viết sau năm 1975 ở hải ngoại, mọi người vẫn nhận ra nét hào hoa riêng biệt trong trường phái thơ lãng mạn của ông. Trong tập “Hoa sen và hoa đào” được sáng tác khoảng thời gian 1982 đến 1988, có những bài thơ còn mang đậm phong cách Nguyên Sa của thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước. Có những câu thơ mềm mại, linh hoạt và ấm áp theo suốt cả cuộc đời ông, và cho lúc đến chặng đường hoàng hôn của kiếp làm thơ, ông mới chợt ngộ ra căn bệnh ung thư dạ dày đang hành hạ từng ngày, nhưng vẫn không rời bỏ thơ. Bài thơ “Hóa học trị liệu” có thể xem như một cột mốc để đánh dấu những sáng tác tạ từ nhân gian của ông.
"Tôi biết cây phong đứng ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là mặt đất
Như thể vật nào cuối cùng cũng chỉ có cùng một tên"
Hay khi Nguyên Sa chột dạ biết ông sẽ đi về miền đất chết không xa nữa, đã làm ra bài “Mật khẩu đời mình” :
"Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Trong cuốn hồi ký của mình, Nguyên Sa viết :
- "Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại bản ngã khác biệt…". Vì vậy, để hiểu Nguyên Sa không có phương pháp nào đáng tin cậy bằng sự nghiêm túc đọc lại thơ Nguyên Sa…”.
Khi sang Pháp du học và thi đậu bằng Tú tài ngay tại xứ sở hoa lệ này, nhà thơ Nguyên Sa ghi danh vào khoa Triết của ĐH Sorbonne.Tại đây ông gặp gỡ bà Trịnh Thị Nga, và người phụ nữ này đã biến ông thành thi sĩ từ đó. Bài thơ nổi tiếng đầu tiên của Nguyên Sa cũng là bài thơ đính hôn. Bài thơ có tên “Nga” được in ngay vào thiệp cưới năm 1955.
Năm 1956, nhà thơ Nguyên Sa đưa vợ về Sài Gòn sống bằng nghề dạy học và làm thơ. Với quan niệm bản thân "vốn dĩ chỉ là hạt cát", Trần Bích Lan mới lấy bút danh Nguyên Sa và ngay lập tức lừng lẫy trên thi đàn. Có thể do sự tình cờ hữu duyên, những bài thơ của Nguyên Sa được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc đã lan tỏa rất nhanh vào đời sống văn hóa mọi người lúc đó, và cho đến tận hôm nay, nên khi nhắc đến Nguyên Sa là người ta lại nghe vang lên trên môi những lời hát từ nhạc Ngô Thụy Miên :
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh (Áo lụa Hà Đông)
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc.
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường (Tuổi mười ba)
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm.
Chả biết tay ai làm lá sen (Paris có gì lạ không em)
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn.
Nếu em sợ thời gian dài vô tận (Tháng sáu trời mưa)
Theo một nhà văn nhận định về cuộc đời thi ca của Nguyên Sa đã nói :
- “Những bài thơ được phổ nhạc ấy cứ bồng bềnh từ thế hệ này sang thế hệ kia, khiến nhiều bài thơ khác của Nguyên Sa ít nhiều bị che khuất, kể cả những câu thơ độc đáo miêu tả chiếc áo dài dân tộc “Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần mây/Hay là em gói mây trong áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay”.
Tuy nhiên, nếu đọc thơ Nguyên Sa viết sau năm 1975 ở hải ngoại, mọi người vẫn nhận ra nét hào hoa riêng biệt trong trường phái thơ lãng mạn của ông. Trong tập “Hoa sen và hoa đào” được sáng tác khoảng thời gian 1982 đến 1988, có những bài thơ còn mang đậm phong cách Nguyên Sa của thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước. Có những câu thơ mềm mại, linh hoạt và ấm áp theo suốt cả cuộc đời ông, và cho lúc đến chặng đường hoàng hôn của kiếp làm thơ, ông mới chợt ngộ ra căn bệnh ung thư dạ dày đang hành hạ từng ngày, nhưng vẫn không rời bỏ thơ. Bài thơ “Hóa học trị liệu” có thể xem như một cột mốc để đánh dấu những sáng tác tạ từ nhân gian của ông.
"Tôi biết cây phong đứng ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là mặt đất
Như thể vật nào cuối cùng cũng chỉ có cùng một tên"
Hay khi Nguyên Sa chột dạ biết ông sẽ đi về miền đất chết không xa nữa, đã làm ra bài “Mật khẩu đời mình” :
"Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Đó là những vần thơ cuối đời của nhà thơ Nguyên Sa sáng tác trước khi qua đời, nhưng tiêu biểu cho những bài thơ tình lãng mạn của ông có những bài đã được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ thơ thành nhạc như đã nói :
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói đã nghe lừng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
THÁNG SÁU TRỜI MƯA
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận
Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay nhau bằng ngón tay bấn loạn
Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt
Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận
Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống
Trời không mưa em có lạy trời mưa?
Anh vẫn xin mưa phong toả đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm.
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu.
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em ?
Em có đứng ở bên bờ sông ? Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút suơng sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa ...
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em ?
Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Để lúc xa vời đỡ nhớ nhung
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen ? ...
TUỔI 13
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng ?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngạt ngào tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu sáng
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba .
Tôi phải van lơn: ngoan nhé đừng ngờ
Tôi phải dỗ như là tôi đã lớn
Phải thẹn thò như sắp cưới hay vùa sêu
Phải nói vơ vào, rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm : ai thế ?
Tôi nói lâu rồi nhưng ngập ngừng khe khẻ
Để giận hờn chim bướm trả dùm tôi
Nhưng rồi lòng an ủi nắng chưa phai
Tình chưa cũ vì tình chưa mới ...
Má vẫn đỏ một màu con gái
Với những lời hiền dịu nhưng chua ngoa
Lòng vẫn ngỡ ngàng tóc ướp bằng thơ
Sao hương sắc lên mắt mình tình tứ
Và đôi mắt nhìn tôi ngập ngừng chim sẻ
Đôi mắt nhìn trời nhè nhẹ mây nghiêng
Tôi biết nói gì cả trăm phút đều thiêng
Hay muốn nói nhưng lòng mình ngường ngượng
Chân dịu bước và mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi,
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất, thì thầm: "chưa phải lúc.."
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trượng
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím
Chả có gì sao lòng mình cũng thẹn
Đến ngượng ngùng bỡ ngỡ: hay là ai ...?
Trăm bức thư lót giấy kẻ dòng đôi
Mà nét chữ run run dù rất nhẹ
Tôi đã viết hay chỉ thầm âu yếm kể
Tôi đã nhìn hay lặng lẽ say sưa
Và lo sợ khi lòng mừng quá đội
Rồi trách móc trời không gần cho tay với
Và cả nàng, hư quá! sao mà kiêu ... Nên đến trăm lần: "nhất định mình chưa yêu ..."
Hôm nay nữa ... nhưng lòng mình ... sao lạ quá
Ngô Thụy Miên người nhạc sĩ tài hoa
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên tên thật là Ngô Quang Bình, sinh 26/9/1948 tại Hải Phòng, là con thứ nhì trong một gia đình có bảy người con. Ông lớn lên với sách vở, thơ văn, vì gia đình có mở một nhà sách tên Thanh Bình ở thành phố Cảng, và sau này trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), Sài Gòn, trước trường tiểu học Pháp Aurore.
Sau khi gia đình vào Sài Gòn ở, Ngô Thụy Miên theo học và tốt nghiệp về hai bộ môn vĩ cầm và nhạc pháp do các nhạc sĩ Hùng Lân và Đỗ Thế Phiệt giảng dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc vào năm 1965, tuy nhiên ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1963.
Tình khúc đầu tiên mà nhạc sĩ Ngô Thụy Miên sáng tác là bài "Chiều nay không có em" (1965), được giới sinh viên học sinh thời gian đó hưởng ứng rất nồng nhiệt. Vài năm sau, ông cho xuất bản một tập nhạc đầu tay lấy tựa "Tình Khúc Đông Quân" in ronéo phát hành tại Sài Gòn (1969). Đông Quân chính là bút hiệu đầu đời của ông trước khi đổi qua bút hiệu Ngô Thụy Miên bây giờ.
Trong tuyển tập "Tình Khúc Đông Quân", nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã ghi lời tâm bút thay cho lời ngỏ trên trang đầu, là những tình khúc viết cho bạn bè và tình yêu, trong đó gồm 12 bản tình ca gồm Giáng ngọc, Mùa thu này cho em (sau đổi là Mùa thu cho em), Gọi nắng (sau đổi là Giọt nắng hồng), Dấu vết tình yêu (sau đổi là Dấu tình sầu), Cho những mùa thu (sau đổi là Thu trong mắt em), Tình khúc tháng 6, Nhạt Tình (sau đổi là Dấu vết tình yêu), Mây hồng (sau đổi là Tuổi mây hồng), Gọi tên em, Ái xuân, Mùa thu về trong mắt em (sau đổi là Mắt thu) và Ngày mai em đi. Ca khúc mới nhất của Ngô Thụy Miên có tên "Một lần là mãi mãi”
Sau những sáng tác từ năm 1963, đến với công chúng vào năm 1965, sau đó nhạc sĩ Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của thi sĩ Nguyên Sa như, Áo lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tuổi 13... Còn trong thời gian theo học đại học, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã nhiều lần trình diễn và phổ biến những sáng tác của mình tại các hội quán văn nghệ, các trung tâm văn hóa và giảng đường đại học. Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng nhạc đầu tay “Tình Ca Ngô Thụy Miên” gồm 17 tình khúc đã được viết trong khoảng thời gian 1965 - 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ và nhạc sĩ như Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Duy Quang...
Sau ngày 30/4/75 đến tháng 10/78, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên mới vượt biên đến tị nạn tại đảo Pulau Bidong của Mã Lai, và chính thức ra mắt một sáng tác viết từ năm 1975 là bài "Em còn nhớ mùa xuân" gởi tặng riêng cho người yêu là Đoàn Thanh Vân, là con gái của nam tài tử Đoàn Châu Mậu (trong một gia đình gồm những người hoạt động về âm nhạc như Đoàn Châu Nhi, Đoàn Châu Bào, Đoàn Thanh Sâm, Đoàn Thanh Tuyền một thời cùng với nhạc sĩ Đức Huy, kết hợp thành cặp song ca Đức Huy – Đoàn Thanh Tuyền nổi tiếng trong những sinh hoạt nhạc trẻ vào đầu thập niên 70.
Tình yêu giữa Ngô Thụy Miên và Đoàn Thanh Vân bắt đầu khi cả hai gặp gỡ nhau tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, bị ngắt quãng một thời gian để sau đó lại tái hợp vào năm 1973 rồi đi đến quyết định thành hôn. Nhưng ngày 30/4/75 đến như một sự chia cách, khiến dự định thành hôn của hai người đã không thành, vì Đoàn Thanh Vân theo gia đình di tản trong những ngày đầu tiên, trong khi Ngô Thụy Miên ở lại Sài Gòn. Chính niềm thương nhớ đó đã tạo thành cảm xúc cho ông sáng tác ra ca khúc “Em còn nhớ mùa xuân”.
Sau sáu tháng ở trại tị nạn, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên được nước thứ ba bảo lãnh cho sang Montréal, Canada, vào tháng Tư năm 1979. Đoàn Thanh Vân từ San Diego, được tin người yêu đã đến được Canada, đã bay sang nối kết lại cuộc tình, đưa đến cuộc hôn nhân bị dở dang vì thời cuộc. Cùng năm 1979, cả hai qua sống tại San Diego rồi dời lên Orange County. Qua năm 1980, Ngô Thụy Miên bắt đầu đi làm về ngành điện toán cho trường UCLA, tại thành phố Olympia thuộc tiểu bang Washington".
Trong thập niên 1990, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên tiếp tục sáng tác với những ca khúc mới như Cần thiết, Em về mùa thu, Trong nỗi nhớ muộn màng... và nhất là Riêng một góc trời (1997). Năm 2000, nhạc phẩm “Mưa trên cuộc tình tôi” của ông được khán thính giả đón nhận một cách đặc biệt. Tổng cộng đến nay, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã sáng tác được trên 70 ca khúc, với khoảng 20 bài từ trong nước.
Có những nhận xét từ mọi người khi nói rằng nhạc Ngô Thụy Miên chứa đựng đầy chất lãng mạn, chịu nhiều ảnh hưởng từ thơ Nguyên Sa. Có người biện giải, những suy nghĩ đó chỉ đúng phần nào đó khi ông phổ thơ Nguyên Sa. Còn những nhạc phẩm khác, nhạc của Ngô Thụy Miên vẫn mang đậm chất tình ca riêng biệt như những nhạc phẩm đầu tay trong tập nhạc “Tình Khúc Đông Quân". Vì nhạc của Ngô Thụy Miên nếu đứng riêng biệt cũng không kém chất lãng mạn, trữ tình, vẫn có sắc thái độc đáo, như nhạc phẩm “Mùa thu cho em” sau này đã lên hàng top hit.
Tuy nhiên không ai có thể phủ nhận, khi Ngô Thụy Miên phổ thơ Nguyên Sa thì sự giao duyên này là một cuộc giao hưởng trường cửu, như “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi 13”, “Áo lụa Hà Đông”, “Nắng Paris nắng Sài Gòn”, “Tình khúc tháng 6”, “Tháng 6 trời mưa”... Sự giao hưởng này làm thăng hoa sự tuyệt tác từ thơ qua nhạc và ngược lại. Để mọi người lúc đó mới chợt nhận ra, hiện hữu có một nhà thơ tên Nguyên Sa hay một nhạc sĩ tên Ngô Thụy Miên đang thăng hoa trong đời sống văn hóa nghệ thuật.
Như Ngô Thụy Miên từng nói “...Trong thời gian đi học, mình đọc thơ của Nguyên Sa nhiều nhất, ngâm nhiều nhất thành ra nó đã thấm vào hồn mình... Trong bốn thập niên viết nhạc của tôi thì thơ của ông ấy lúc nào cũng bàng bạc ở trong dòng nhạc của tôi. Ngay cả như bên này như tôi viết “Nắng Paris, Nắng Sài Gòn” cũng mang một âm hưởng của Áo Lụa Hà Đông hay Paris Có Gì Lạ Không Em?" nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã tâm sự như vậy khi nói về mối giây ràng buộc giữa nhạc của ông với thơ Nguyên Sa.
Và chúng ta hãy nghe những lời tự bạch của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên khi tình tự gửi cho người yêu Đoàn Thanh Vân lúc chưa cưới, đó là ký ức một thời Sài Gòn của ông :
“Rồi đến là những mùa Xuân của tuổi trẻ, của những háo hức, đợi chờ, của những môi hôn vội vã, vòng tay quấn quít trao nhau trên đường phố thân thương, quán hàng quen thuộc. Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay..."
Hay đoạn đầu nói về gia đình Ngô Thụy Miên khi chia tay thành phố Cảng :
“Tôi sinh ra tại Hải Phòng, một thành phố ở miền Bắc, cũng là nơi sinh trưởng của 2 người nhạc sĩ tôi yêu quí nhất, Văn Cao và Đoàn Chuẩn. Nếu Văn Cao là người nhạc sĩ tôi quí trọng nhất, không phải chỉ về những đóng góp của ông vào vườn hoa âm nhạc, mà còn về tác phong, đời sống cá nhân ông, còn với Đoàn Chuẩn là người tôi yêu thích nhất với những tình khúc bất hủ, và những đóng góp lớn lao của ông vào việc tạo dựng một dòng nhạc tình tự, lãng mạn nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Qua Đoàn Chuẩn, tôi đã yêu mùa Thu, đã sáng tác nhiều nhạc phẩm về mùa Thu, và vẫn mơ một ngày nào đó sẽ có dịp trở về thăm mùa Thu của ông...
“Rời Hải Phòng vào miền Nam, bố mẹ tôi đã chọn thành phố Sài Gòn, đường Phan Đình Phùng để xây dựng lại tiệm sách Thanh Bình làm nơi sinh sống. Tại đây tôi lại có dịp nhìn thấy những chiếc tầu sắt khổng lồ với những ống khói cao ngất, phun ra những tàn khí bụi than mù mịt bầu trời (đoạn đường sắt này chạy trên đường Phạm Viết Chánh về đến Mỹ Tho thời Pháp, qua đến thời TT Ngô Đình Diệm vẫn còn hoạt động). Nhà tôi ở gần góc đường Cao Thắng, trước cửa trường mẫu giáo Aurore. Tôi còn nhớ trên đường Cao Thắng, thật là một sự tình cờ trùng hợp, cũng có một lò bánh mì, là nơi cuối tuần tôi hay ra mua bánh về cho cả nhà ăn sáng với thịt nguội. Ngoài ra còn có 2 rạp chớp bóng Việt Long (sau là Văn Hoa Sài Gòn) và Đại Đồng. Ngôi chợ rất gần nhà là chợ Vườn Chuối mà thỉnh thoảng mẹ tôi cho đi theo để xách giỏ thức ăn về hộ mẹ...”
Cuối cùng nhạc sĩ Ngô Thụy Miên nói tiếp “Tôi không viết nhạc để sống, nhưng sống để viết nhạc", cho thấy ông là người sống vì nghệ thuật hơn là nô lệ cho đồng tiền bằng những sáng tác tác phẩm của mình, do ông còn có một nghề khác là chuyên viên của ngành điện toán. Vì thế cho đến nay Ngô Thụy Miên chỉ đến với âm nhạc bằng những cảm xúc riêng tư, không hề có mục đích thương mại, như ông đã tuyên bố, do đó những tình khúc của ông đã thoát ra sự gò bó khi dùng âm nhạc và lời ca làm sinh kế như nhiều nhạc sĩ cùng thời. Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên muốn viết cho chính ông, bằng những cảm xúc thật của mình, "tôi không viết cho mọi người".
Tuy chủ trương không viết cho mọi người, nhưng dòng nhạc của ông đã nói lên được tâm sự của những ai từng có những rung động trong tình yêu Trả lời câu hỏi tại sao nhạc sĩ Ngô Thụy Miên không viết về những đề tài khác ngoài tình ca, ông thú nhận là có nhiều khi cũng muốn viết đề tài khác, nhưng không viết được. "Hơn nữa tôi không cảm thấy mình muốn viết về những đề tài đó, cho nên tôi chỉ viết về tình ca không mà thôi ". Nhưng có lẽ lý do đúng hơn hết là do bản tính lãng mạn của một nghệ sĩ vì "nếu bây giờ tôi khô khan, mực thước, đâu vào đó cả thì tôi đâu có làm văn nghệ được."
Ngô Thụy Miên cũng cho biết, sáng tác của ông không hề nhắm vào một giọng ca nào theo kiểu “đo ni đóng giày” như một số nhạc sĩ đã thể hiện, như một Mạnh Phát viết cho Thanh Tuyền, Phương Dung, một Phạm Đình Chương viết cho Thái Thanh, một Tâm Anh viết cho Phương Hồng Quế v.v…vì vậy Ngô Thụy Miên từng cũng từng nói : "Như bài “Riêng một góc trời”, tôi đâu có nghĩ là Tuấn Ngọc hát như vậy đâu, thế mà ông ấy hát ra nó lại thành công như vậy thôi ! Tuấn Ngọc hát bài đó tới lắm."
Hơn 40 năm viết tình khúc, khi ở Mỹ nhạc sĩ Ngô Thụy Miên có thêm một vài nhạc phẩm phổ từ thơ Nguyên Sa, dù đã có nhiều thay đổi trong dòng nhạc và lời ca, nhưng những ai đã từng yêu mến những nhạc phẩm của ông vẫn dễ dàng nhận ra những nét quen thuộc mà chỉ riêng nhạc sĩ Ngô Thụy Miên mới có được. Nhiều người phong tặng Ngô Thụy Miên là một nhạc sĩ tài hoa đích thực.
Những nhạc phẩm phổ thơ Nguyên Sa
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát / Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông / Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng / Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng / Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn / Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung / Bay vội vã vào trong hồn mở cửa / Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết / Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng gì đâu / Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau? / Để anh gọi tiếng thở buồn vọng laị ....
Em ở đâu, hỡi mùa Thu tóc ngắn? / Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông / Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng / Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
PARIS CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM
Paris có gì lạ không em?/ Mai anh về em có còn ngoan/ Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ/ Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em? / Mai anh về giữa bến sông Seine / Anh về giữa một giòng sông trắng / Là áo sương mù hay áo em?
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay / Tóc em anh sẽ gọi là mây / Ngày sau hai đứa mình xa cách / Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Paris có gì lạ không em? / Mai anh về mắt vẫn lánh đen / Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm / Chả biết tay ai làm lá sen
THÁNG SÁU TRỜI MƯA
Tháng sáu trời mưa trời mưa không ngớt / Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa / Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về / Và đêm ơi xin cứ dài vô tận / Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại / Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng có phải đêm đã khuya / Đừng hỏi anh rằng có phải đêm đã khuya / Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng / Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa Xuân / Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân / Vì anh gọi tên em là nhan sắc / Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc / Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi / Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai / Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu em ơi
Tháng sáu trời mưa em có nghe mưa xuống / Trời không mưa em có lạy trời mưa / Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về / Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường em
. (Xuân Hương st)
Nguồn: http://www.nhuygialai.com/2013/11/nguyen-sa-va-nhung-tinh-khuc-tu-tho-qua.html#ixzz37sJUmpNK
(blog: Phố núi và bạn bè...)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét